Chuyển giá, trốn thuế tại các doanh nghiệp có vốn FDI đã làm thất thoát thuế của nhà nước cũng như gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường đầu tư, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Đây là cuộc chiến lâu dài có nhiều khó khăn, thách thức cần có sự phối hợp đồng bộ từ văn bản pháp luật, sự chung tay của các doanh nghiệp. Dưới đây là một số kinh nghiệm quốc tế trong việc chống chuyển giá trong quản lý thuế.
1. Kinh nghiệm của OECD
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đã và đang thừa nhận quan điểm của OECD trong việc đề ra các biện pháp chống chuyển giá thông qua các phương pháp tính giá chuyển giao, vì nó có tính trung lập và tương đồng trong khả năng quản lý, cụ thể:
(i) Phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự do có thể so sánh được;
(ii) Phương pháp giá bán lại;
(iii) Phương pháp giá cộng lãi;
(iv) Phương pháp chiết tách lợi nhuận;
(v) Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao.Trong đó, phương pháp chiết tách lợi nhuận được coi là tốt nhất trong phần lớn các trường hợp, và là phương pháp tương đối trực tiếp. Phương pháp này xác định lãi gộp để phân chia giữa các công ty liên kết dựa trên cơ sở giá trị kinh tế để phân chia phần lợi nhuận dự kiến và được phản ánh trong hợp đồng ký kết giữa các bên.
Ngày 8/7/1994, OECD đưa ra dự thảo “Hướng dẫn giá chuyển giao đối với các MNCs và các cơ quan quản lý thuế ”. OECD hướng dẫn cho các MNCs và các cơ quan quản lý thuế dựa trên nguyên tắc “định giá công bằng”. Trong việc kiểm soát giao dịch giữa hai công ty ở hai nước khác nhau, hai cơ quan thuế có thể thống nhất cách áp giá giao dịch để tránh bị đánh thuế hai lần. Khi đó, mỗi bên sẽ được chia một phần lợi nhuận, chứ không có chuyện một nước gánh toàn bộ chi phí, còn nước kia được hưởng toàn bộ lợi nhuận.
Tháng 7/1995 OECD đã ban hành bản hướng dẫn chính thức về lãi gộp và hướng dẫn “Những xem xét đặc biệt đối với quyền sở hữu tài sản vô hình” cũng đã được ban hành gần một năm sau (tháng 3/1996).
Tháng 2/2013, OECD đã khởi động dự án “Chống xói mòn nguồn thu và chuyển lợi nhuận” (gọi tắt là BEPS), đến tháng 5/2016, OECD đã đưa ra 15 chương trình hành động nhằm ngăn ngừa, hạn chế các hành vi làm xói mòn nguồn thu và chống chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, trong đó đáng chú ý là chương trình hành động số 4 (Giảm thiểu xói mòn nguồn thu đối với lãi vay và các khoản thanh toán tài chính khác), chương trình hành động số 8-10 (Đảm bảo xác định giá chuyển nhượng phù hợp với giá trị được tạo lập), chương trình hành động số 13 (Hồ sơ giá chuyển nhượng và báo cáo lợi nhuận liên quốc gia).
2. Kinh nghiệm của Mỹ
Mỹ luôn coi trọng việc hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến định giá chuyển giao, chính vì vậy các quy định về định giá chuyển giao đã trở thành một phần trong luật thuế của Mỹ từ thời điểm chiến tranh thế giới lần thứ nhất, khởi đầu là điều khoản số 482 của Luật Thu nhập nội bộ (IRC) ban hành năm 1968. Điều khoản 482 này được xây dựng nhằm cải thiện tình hình thất thu thuế, theo đó, giá chuyển giao TSHH và vô hình giữa các chi nhánh của một doanh nghiệp ở các nước khác nhau phải được xác định tương đương với giá cung cấp cho bên thứ ba, hoặc tương đương với giá của một doanh nghiệp khác có sản phẩm tương tự; khi giá chuyển nhượng của doanh nghiệp làm thay đổi đáng kể số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp, điều khoản này cho phép cơ quan thuế xác định lại giá chuyển giao nhằm tính lại lợi nhuận trước thuế để tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ví dụ, trường hợp của công ty Nissan chuyển nhượng ô tô và các phụ tùng với giá cao cho các chi nhánh ở Mỹ, làm cho lợi nhuận chi nhánh ở Mỹ giảm và lợi nhuận của công ty mẹ ở Nhật Bản tăng lên gần 1 tỷ USD, điều này đồng nghĩa với việc một phần số thuế thu nhập doanh nghiệp đúng ra phải nộp ở Mỹ đã được chuyển về cho Nhật Bản. Năm 1993, Cơ quan Thuế nội địa của Mỹ (IRS) đã điều tra và phán quyết rằng hãng ô tô Nissan của Nhật Bản đã tránh thuế bằng cách định giá rất cao các loại xe nhập khẩu vào Mỹ, cuối cùng hãng ô tô Nissan phải nộp một khoản tiền phạt là 170 triệu USD.
Tháng 10/1988, Cơ quan Thuế nội địa Mỹ (IRS) đưa ra hai phương pháp nhằm thiết lập tiêu chuẩn cân xứng với thu nhập:
(i) Dựa trên phân tích các giao dịch có thể so sánh;
(ii) Dựa trên việc tách lợi nhuận giữa các bên có giao dịch liên kết. Tháng 01/1992 IRS ban hành quy định giới thiệu ba phương pháp định giá mới, tất cả dựa trên việc đối chiếu các tài liệu về kết quả giao dịch. Tháng 01/1993, IRS ban hành quy định tạm thời; ngày 01/7/1994 quy định chính thức được ban hành có hiệu lực từ ngày 8/7/1994 cho đến nay. Quy định yêu cầu giá chuyển giao TSVH chính thức phải được xác định theo một trong bốn phương pháp:
(i) Phương pháp giao dịch không liên kết có thể so sánh (CUT);
(ii) Phương pháp lợi nhuận có thể so sánh (CPM);
(iii) Phương pháp tách lợi nhuận; (iv) Các phương pháp khác không định trước.
Cơ quan thuế của Mỹ thông thường chỉ khuyến khích thực hiện phương thức APA đối với các MNCs lớn, bởi khoản chi phí thực hiện APA khá cao (từ 25.000 – 50.000USD) và thời gian đàm phán song phương thường từ 2-3 năm, trong khi thời gian áp dụng tối đa cho mỗi APA là 5 năm.
Luật thuế của Mỹ cũng quy định các MNCs có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các tài liệu có liên quan theo yêu cầu của IRS như: Bản mô tả về MNCs, các yếu tố xác định giá, phương pháp xác định giá, các phân tích kinh tế hình thành giá giao dịch …
Về hình thức xử phạt, số tiền phạt vi phạm về chuyển giá giao động từ 20%- 40% giá trị sai lệch, ngoài ra còn áp dụng hình thức phạt bổ sung nếu phần thu nhập chịu thuế sau khi tính lại tăng vượt mức quy định, tiền phạt được tính trên mức thuế phải nộp, do đó dễ tính phạt và có tác dụng răn đe hơn; số tiền phạt sẽ không được hạch toán vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế.
Ngoài ra, IRS đặc biệt coi trọng đến con người thực thi công tác chống chuyển giá, lựa chọn người giỏi, tập trung đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực (năm 2009 bổ sung 1.200 người; năm 2010 bổ sung 800 người); gắn kết chặt chẽ IRS với cơ quan hải quan Mỹ trong phối hợp điều tra, trong xây dựng cơ sở dữ liệu về giá nhập, xuất khẩu; IRS quan tâm đến việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các MNCs, các giao dịch liên kết, về giá các loại vật tư, hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Các quy định về chống chuyển giá của Trung Quốc được xây dựng trên căn bản dựa theo các hướng dẫn của OECD. Cơ quan thuế đã tham khảo các ý kiến tư vấn của chuyên gia Châu Âu và Hoa Kỳ khi xây dựng luật chống chuyển giá vào năm 1998, vì thế luật chống chuyến giá theo nguyên tắc giá thị trường và các phương pháp định giá chuyển giao tương tự như quy định của Hoa Kỳ và các nước thuộc OECD. Trong quá trình thực hiện, Trung Quốc đã kịp thời bổ sung nhiều thông tư hướng dẫn:
(i) Thông tư số 59 (1998) về quản lý thuế và thủ tục trong giao dịch giữa các bên liên kết;
(ii) Thông tư số 118 (2004) hướng dẫn về các vấn đề liên quan đến chuyển giá;
(iii) Thông tư số 2 (tháng 1/2009) quy định về quản lý các lĩnh vực trong điều chỉnh thuế đặc biệt. Năm 2008 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã quy định điều khoản liên quan đến chuyển giá tại chương 6 (điều chỉnh thuế đặc biệt), trong đó đã xác định các nguyên tắc về giá thị trường, nguyên tắc thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế trong các giao dịch liên kết, thống nhất mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp là 25%.
Phương pháp tiếp cận quản lý giá chuyển nhượng dựa trên nguyên tắc:
(i) Tài sản vô hình: Trung Quốc yêu cầu phân tích tổng thể toàn bộ các khâu phát triển – thúc đẩy – duy trì – bảo vệ và khai thác liên quan đến TSVH và nhấn mạnh mức độ quan trọng của việc quản lý kiểm soát các rủi ro và ra quyết định chính yếu; nhấn mạnh TSVH có khả năng được tạo ra tại thị trường trong nước, bao gồm cả chức năng “khuyến mại” trong danh sách các chức năng liên quan của OECD; nhấn mạnh yếu tố “Lợi thế vị trí” (thế mạnh thị trường và tiết kiệm chi phí do lợi thế vị trí). Các pháp nhân nước ngoài sẽ không được quyền hưởng lợi nhuận từ TSVH nếu chỉ thuần túy có quyền sở hữu pháp lý; các pháp nhân này có thể hưởng quyền duy nhất đối với phần lợi nhuận tài chính nếu đóng góp của họ đối với TSVH chỉ duy nhất là việc cung cấp tài chính.
(ii) Không công nhận giao dịch: Nếu một giao dịch giữa các bên liên kết không xảy ra trong điều kiện, hoàn cảnh kinh tế giữa các bên độc lập, thì giao dịch này sẽ được coi là không diễn ra hoặc được đánh giá, nhận diện lại.
(iii) Các pháp nhân có chức năng/thực chất hoạt động thấp tại các khu vực có thuế suất thấp: Trung Quốc quy định rõ trong trường hợp các bên nước ngoài có rất ít hoạt động kinh doanh thực chất thì có thể lựa chọn các đối tượng này là bên được kiểm tra giá chuyển nhượng. Ví dụ, một bên liên kết tại nước có thuế suất thấp có quyền sở hữu pháp lý đối với TSVH, hoặc đã chi trả tài chính cho việc thu được hoặc phát triển một TSVH, sẽ được hưởng quyền đối với phần lợi nhuận thông thường (hoặc không có lợi nhuận) khi pháp nhân này có rất ít hoặc không có hoạt động thực chất (liên quan đến nhân sự quản lý đưa ra các quyết định gánh chịu rủi ro quan trọng/chính yếu).
(iv) Quản lý rủi ro: Trung Quốc áp dụng phương pháp tiếp cận Bản chất quyết định hình thức trong việc xem xét khả năng tái phân bổ rủi ro phù hợp với thực tế kiểm soát và quản lý rủi ro của các bên liên kết.
Các biện pháp xử phạt cụ thể đối với hành vi chuyển giá được quy định tại điều 60-73 của Luật quản lý thuế, các hành vi vi phạm luật có thể bị phạt tiền bằng 3 lần số thuế trốn lậu và những vi phạm nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy thu thuế thông thường là 3 năm trở về trước và từ 5 đến 10 năm đối với những trường hợp trốn thuế lớn gây hậu quả nghiêm trọng, tiền chậm nộp tính trên số thuế nợ là 0,05%/ngày.
Trung Quốc đã quy định tại thông tư Goushuifa (2009), điều 46-63 về phương pháp thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA), theo đó đã nới lỏng các quy định để tham gia vào các thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế, do đó các doanh nghiệp sẽ được tham gia nhiều hơn. Để hội đủ điều kiện để trở thành ứng viên cho APA các doanh nghiệp phải có tổng giá trị các giao dịch hằng năm với các bên liên quan lớn hơn 40 triệu nhân dân tệ, đã chuẩn bị hoặc đã nộp hồ sơ hàng năm và nộp hồ sơ tài liệu đương thời theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp sẽ không tốn lệ phí khi nộp đơn cho APA.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng tăng cường các công cụ như công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu để hỗ trợ cho công tác chống tránh thuế, gia tăng huấn luyện cho các chuyên gia chống tránh thuế bao gồm cả đào tạo ngắn hạn và dài hạn, cả đào tạo trong nước và nước ngoài, tuyển dụng thêm sinh viên tốt nghiệp đại học các ngành
liên quan để bổ sung thêm vào lực luợng chống trốn, tránh thuế; thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm đối với các doanh nghiệp có quan hệ liên kết, có dấu hiệu chuyển giá.
4. Kinh nghiệm của Malaysia
Malaysia đã luật hóa những vấn đề liên quan đến định giá chuyển giao trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp, trong đó đã yêu cầu doanh nghiệp có quan hệ liên kết phải kê khai rõ về cấu trúc của các MNCs, dữ liệu thống kê về tài chính, các giao dịch nội bộ, lợi nhuận gộp. Về phương pháp xác định giá chuyển giao được dựa trên kinh nghiệm thực tế và các phương pháp của OECD, gồm có: Phương pháp so sánh giá thị trường tự do; phương pháp dựa vào giá bán ra; phương pháp cộng chi phí vào giá vốn; phương pháp phân chia lợi nhuận; phương pháp lợi tức thuận từ giao dịch. Phương pháp tiếp cận quản lý giá chuyển nhượng dựa trên nguyên tắc:
(i) Quy định năm 2012 yêu cầu rủi ro được phân bổ phù hợp với bản chất kinh tế của giao dịch, nhấn mạnh các bằng chứng tốt nhất nhằm xác định liệu việc phân bổ rủi ro có phù hợp với bản chất kinh tế trong thực tiễn kinh doanh, thực hiện của các bên liên kết. Quy định đưa ra “Yếu tố bổ trợ có thể xem xét khi kiểm tra bản chất kinh tế của việc phân bổ rủi ro là kết quả của việc phân bổ này có phù hợp nguyên tắc với GDĐL”; Trong GDĐL, nhìn chung sẽ phù hợp về mặt thương mại nếu một bên được phân bổ rủi ro lớn hơn khi họ có quyền kiểm soát tương ứng lớn hơn đối với rủi ro này và vì vậy có thể tự phòng tránh rủi ro với chi phí ít tốn kém hơn so với bên không có quyền kiểm soát rủi ro này.
(ii) Khi xác định giá GDĐL, cơ quan thuế Malaysia có thể không công nhận hoặc tái nhận diện lại các GDLK trong một số trường hợp nhất định, bao gồm cả điều khoản về nguyên tắc “bản chất quyết định hình thức”.
Cơ quan thuế có thể áp dụng xử phạt theo hành vi trốn thuế đối với các công ty có GDLK khi không thực hiện giá cả ở mức hợp lý. Hình thức phạt thì không có quy định riêng biệt, mà áp dụng quy định xử phạt vi phạm thuế chung trong luật, mức phạt dao động từ 01 đến 03 lần số thuế gian lận bị phát hiện và có thể tùy theo mức độ vi phạm sẽ phạt tù đến 3 năm, công khai các doanh nghiệp có hoạt động chuyển giá.
5. Kinh nghiệm của Indonesia
Quy định về giá chuyển nhượng của Indonesia năm 2013 áp dụng phương pháp quản lý giá chuyển nhượng cơ bản theo hướng dẫn của OECD, phù hợp với thông lệ quốc tế và bắt kịp các xu hướng phát triển mới nhất, dựa trên nguyên tắc:
(i) Quy định về giá chuyển nhượng trên cơ sở áp dụng nguyên tắc giao dịch độc lập;
(ii) Yêu cầu người nộp thuế xác định vai trò của các pháp nhân trong việc phát triển TSVH nhằm đảm bảo việc phân bổ thu nhập chịu thuế tương ứng với việc tạo lập giá trị.
Hình thức xử phạt với mức phạt từ 2%/ tháng đến 45%/tháng tính trên số thuế nộp thiếu bị phát hiện do gian lận qua chuyển giá.
6. Kinh nghiệm của Thái Lan
Để đối phó với hiện tượng chuyển giá, năm 2014, Thái Lan thiết lập cơ sở dữ liệu thông tin về các công ty đang là mục tiêu để tiến hành kiểm tra sổ sách và điều tra cụ thể là các công ty có các chỉ số “ rủi ro” như: Thua lỗ liên tục hơn hai năm; tổng số lợi nhuận âm; không nộp thuế trong một giai đoạn; có các giao dịch đáng kể của cùng nhóm liên quan; khả năng sinh lãi thấp so với các đối thủ cạnh tranh.
Cơ quan thuế của Thái Lan tập trung vào các chứng cứ giá cả chính xác, tất cả cần hợp lý để chứng tỏ sự minh bạch để chỉ ra cơ cấu và mối liên hệ của nhóm các công ty, kết quả hoạt động, các giao dịch quốc tế của công ty với các tổ chức kinh doanh liên kết.
Tại Thái Lan còn có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các khâu nghiệp vụ và điều tra chống buôn lậu nhằm chia sẻ thông tin và thực hiện các biện pháp ngăn chặn gian lận, chống thất thu thuế nhập khẩu. Song song với việc triển khai Hiệp định trị giá GATT/WTO, Hải quan Thái Lan áp dụng các biện pháp quản lý như: Quản lý rủi ro, kiểm tra sau thông quan, phối hợp với công tác điều tra chống buôn lậu để xác định trọng điểm nhằm tiến hành kiểm tra sâu rộng. Hải quan Thái Lan có quyền yêu cầu doanh nghiệp cung cấp toàn bộ chứng từ liên quan đến hàng hoá và sổ sách, giấy tờ, chứng từ kế toán để kiểm tra xem xét.
Ngoài ra, các chính sách giá, khả năng sinh lãi của mỗi sản phẩm và thông tin thị trường, sự đóng góp lợi nhuận của mỗi bên nhận các chức năng thực hiện, các tài sản đã sử dụng, và sự rủi ro, tất cả phải được đưa vào tính toán và có khả năng sử dụng cho việc khảo sát tường tận.
7. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Theo luật pháp Hàn Quốc, các tổ chức, cá nhân có các giao dịch quốc tế phải báo cáo giá chuyển nhượng khi nộp hồ sơ kê khai thuế, tuy nhiên để đạt được sự chắc chắn trong phương pháp định giá chuyển nhượng, các tổ chức cá nhân có thể áp dụng một thỏa thuận trước khi xác định giá với cơ quan thuế và để sát thực của thông tin, cơ quan thuế cũng có bộ phận thẩm định giá để kiểm tra tính xác thực của giá chuyển giao được kê khai trong các báo cáo, trong đó các thông tin của bộ phận thẩm định giá được lấy từ kho cơ sở dữ liệu thương mại và sự phối hợp thông tin với các nước khác.
Hàn quốc áp dụng các biện pháp ký quĩ, bảo lãnh và cưỡng chế thuế đối với NNT để hạn chế các trường hợp thất thu thuế nhập khẩu. Hàn Quốc quy định, tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu phải chịu thuế quan và các loại thuế khác, đối tượng nộp thuế phải nộp xong thuế trước khi thông quan hàng hóa hoặc phải có ký quĩ, bảo lãnh nộp thuế. Việc ký quỹ, bảo lãnh nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu phải có sự chấp thuận của cơ quan Hải quan, quá thời hạn cho phép ký quỹ, bảo lãnh nộp thuế, nếu tổ chức đứng ra ký quỹ, bảo lãnh chưa nộp thuế thì phải nộp một khoản tiền phạt nhất định theo cam kết, cùng với số thuế phải nộp. Quy trình nộp thuế gồm 4 bước:
(i) Cơ quan Hải quan ra thông báo và yêu cầu nộp thuế;
(ii) Thực hiện lệnh thu thuế;
(iii) Bán tài sản bị tịch biên trả nợ thuế bằng số tiền thu được từ việc bán tài sản
(iv) Nếu số thu được từ việc bán tài sản thấp hơn tổng số thuế thì đối tượng nộp thuế sẽ tiếp tục phải nộp số thuế còn thiếu, nếu số tiền còn thừa sẽ hướng dẫn để đối tượng nộp thuế làm thủ tục xin hoàn thuế.
8. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Ở Nhật Bản, để hạn chế tối đa những rủi ro về chuyển nhượng giá, nhà nước đã ký các hiệp định với các nước để phối hợp quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các MNCs, đồng thời đã sớm ban hành luật về chuyển giá: Luật về các biện pháp đặc biệt liên quan đến thuế (1986), đến năm 2005 đã bổ sung thêm điều khoản 68-88 đối với các doanh nghiệp liên kết, đồng thời cũng đã ban hành nhiều thông tư
hướng dẫn thực hiện. Tại thông tư đã xác định rõ các loại hình doanh nghiệp có quan hệ liên kết và có khả năng cao thực hiện chuyến giá; thiết lập chế tài bắt buộc doanh nghiệp phải cung cấp tài liệu và xuất trình cho cơ quan thuế về các thông tin liên quan đến quan hệ liên kết, các biện pháp xác định giá chuyển giao mà doanh nghiệp đang áp dụng, kê khai số tiền giao dịch, thu nhập.
Về phương pháp xác định giá chuyển giao được dựa trên kinh nghiệm thực tế và các phương pháp của OECD, gồm có: Phương pháp so sánh giá thị trường tự do; phương pháp dựa vào giá bán ra; phương pháp cộng chi phí vào giá vốn; phương pháp phân chia lợi nhuận; phương pháp lợi nhuận ròng.
Tổng cục Thuế Nhật Bản đã tập trung lực lượng thực hiện việc thanh tra, trong đó yêu cầu doanh nghiệp thu thập, kê khai các thông tin về giá giao dịch và gửi về cho cơ quan thuế; qua kiểm tra, nếu phát hiện doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro, cơ quan thuế sẽ trực tiếp kiểm tra, thanh tra tại doanh nghiệp, tùy theo mức độ phức tạp của các quan hệ liên kết mà có thể tiến hành kiểm tra cả các bên thứ ba có liên quan tới các giao dịch như ngân hàng, đại lý thuế, các bên mua, bán hàng hóa.
9. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Qua thực tế chống chuyển giá của các nước trên thế giới, có thể rút ra kinh nghiệm chống chuyển giá để vận dụng vào Việt Nam như sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế, chuẩn bị sẵn sàng cho việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài phục vụ cho việc phát triển kinh tế đất nước. Phải đảm bảo pháp luật kinh tế bắt kịp với sự phát triển kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển nhưng đồng thời phải ngăn chặn các hành vi gây tiêu cực cho nền kinh tế; bên cạnh việc tăng cường tính cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư thì cũng phải chọn lọc các đối tác đầu tư, lựa chọn các dự án đầu tư nhằm mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao.
Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến quản lý thuế phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và xu thế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Luật thuế, luật quản lý thuế phải đảm bảo các mục tiêu là đảm bảo tính công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ thuế đối với các thành
phần kinh tế, đảm bảo nguồn thu thuế và đồng thời phải đảm bảo kích thích thu hút vốn FDI.
Thứ ba, cần tiếp cận theo thông lệ quốc tế để xây dựng các quy định về chống chuyển giá theo các phương pháp và nguyên tắc phân tích so sánh giá để đảm bảo quy chuẩn các giao dịch liên kết và giao dịch độc lập về cùng điều kiện tương đương nhau; đưa vào nội luật các quy định yêu cầu NNT có phát sinh giao dịch liên kết phải thực hiện xác định giá tương đương với giá trong giao dịch giữa các bên độc lập; việc điều tra phát hiện các hành vi chuyển giá có mục đích trốn thuế phải được xử phạt nghiêm minh, có sức răn đe, kể cả biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính; hoàn thiện các quy trình, quy định về thanh tra đối với các doanh nghiệp có vốn FDI.
Thứ tư, cần chuẩn bị nguồn nhân lực với chất lượng cao, tổ chức bồi dưỡng về trình độ chuyên môn trong quản lý đối với doanh nghiệp có vốn FDI, quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá, nâng cao về trình độ khai thác và sử dụng công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ của từng quốc gia có đầu tư vào Việt Nam nhằm phục vụ cho việc quản lý thuế, quản lý nguồn vốn FDI. Các cơ quan quản lý kinh tế, đặc biệt là cơ quan Thuế và Hải quan cần phải giao lưu học hỏi kinh nghiệm quốc tế; cần phải phối hợp với cơ quan quản lý các nước cùng nhau hành động chống lại các hoạt động chuyển giá, hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế để thực hiện chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho công chức thuế.
Thứ năm, chú trọng việc xây dựng cơ sở dữ liệu trong quản lý thuế đối với các MNCs và các doanh nghiệp có vốn FDI, cần thiết xây dựng cơ sở dữ liệu về các thông tin liên quan đến DN, cơ sở xác định giá cả hàng hóa trên thị trường trong nước và quốc tế, trong đó chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu đối với cả các doanh nghiệp không phát sinh quan hệ liên kết (doanh nghiệp độc lập) để có thể tham chiếu, so sánh khi xác minh về giá cả hàng hóa, về các chính sách thuế của các nước có liên quan nhằm phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra giá chuyển nhượng và tạo nền tàng cho việc phân tích, quản lý rủi ro đối với các hoạt động chuyển giá.
Thứ sáu, cần thiết lập quan hệ phối hợp với các cơ quan thuế của các nước và các cơ quan có liên quan như: Hải quan, Thuế, cơ quan quản lý đầu tư đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, có sự phối hợp trong quản lý, giám sát hoạt động đầu tư để rà soát, phân loại rủi ro đối với các dự án, rủi ro về nguồn vốn, nghĩa vụ nộp thuế, đồng thời, có sự phối hợp của các cơ quan có liên quan trong thanh tra, điều tra trong các nghiệp vụ quản lý chống chuyển giá, chuyển lợi nhuận của các MNCs. Việt Nam cần phải phối hợp với các nước cùng nhau hành động chống lại các hoạt động chuyển giá mà các MNCs gây ra làm ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các quốc gia.
Tham khảo
Lê Quang Hùng (2018). Chuyển giá và chống chuyển giá trong quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế. Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.