1. Cơ hội phát triển tại Việt Nam tới năm 2025, tầm nhìn 2035
Khi hội nhập trở thành vấn đề tất yếu trong việc phát triển đất nước, cùng với nhận thức của cộng đồng về trách nhiệm xã hội ngày càng tăng và sự quan tâm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp xã hội phát triển, các Doanh nghiệp xã hội nói chung và Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng nói riêng ngày càng có nhiều cơ hội phát triển và gia tăng vị thế trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cụ thể là:
* Ngày 16-01-2017, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đây là một văn kiện hết sức quan trọng đối với sự phát triển ngành du lịch của đất nước ta. Nghị quyết cũng thể hiện quan điểm rất rõ ràng của Đảng và nhà nước ta khi xác định vị trí, tầm quan trọng của ngành du lịch trong nền kinh tế nước nhà trong tình hình hiện nay. Không chỉ dừng lại ở quan điểm, mục tiêu phát triển, Nghị quyết đã chỉ rõ một số nhiệm vụ và giải pháp thực hiện, trong đó yêu cầu phải nhanh chóng hoàn thiện thể chế, chính sách một cách phù hợp và đột phá, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và cộng đồng để phát triển du lịch. Riêng với các doanh nghiệp du lịch nói chung và Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng nói riêng, những định hướng mà nghị quyết đã đề ra vừa là cơ hội để phát triển nhưng cũng là trách nhiệm lớn lao bởi trong quá trình đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, các doanh nghiệp kinh doanh trực tiếp về du lịch luôn ở vị trí trung tâm. Nếu các doanh nghiệp không tự vươn lên, tự đổi mới chính mình thì không thể tạo ra những thay đổi tích cực.
* Tháng 11/2015, việc Việt Nam gia nhập Cộng đồng kinh tế, chính trị, an ninh ASEAN và thỏa thuận MRA-TP về du lịch chính thức có hiệu lực đã giúp các thủ tục rào cản trong việc đi lại giữa 10 nước ASEAN được gỡ bỏ, khách du lịch có thể dễ dàng tự do đi lại. Luồng khách từ các thị trường đi du lịch lẫn nhau sẽ gia tăng. Đây là một cơ hội lớn cho ngành du lịch Việt Nam phát triển.
Theo đó, cùng với nhận thức ngày càng cao của du khách quốc tế trong việc bảo tồn môi trường, tài nguyên nhân văn và văn hóa bản địa tại điểm đến du lịch, Du lịch cộng đồng cũng có nhiều cơ hội để phát triển. Khi cầu về thị trường tăng, nếu phát huy được tinh thần xã hội trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình, các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng sẽ có nhiều lợi thế trong việc cùng với nhà nước và cả du khách chia sẻ trách nhiệm với xã hội trong các hoạt động du lịch.
* Hình ảnh du lịch quốc gia ngày càng được nâng cao với hệ thống di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận ngày càng phong phú. Trong đó, nhiều điểm du lịch được các tổ chức, tạp chí du lịch thế giới bình chọn là điểm đến yêu thích của đông đảo du khách quốc tế. Điển hình như Vịnh Hạ Long được trang web BuzzFeed của Mỹ bình chọn là 1 trong 25 địa danh có vẻ đẹp khó tin nhất trên thế giới; Hà Nội được TripAdvisor bình chọn là 1 trong 10 thành phố thu hút khách du lịch hàng đầu trên thế giới năm 2014; Việt Nam được Tạp chí du lịch Travel & Leisure của Mỹ bình chọn đứng thứ 6 trong số 20 điểm đến tốt nhất dựa trên độ an toàn và thân thiện của người dân dành cho khách du lịch lẻ; Hang Sơn Đoòng được Tạp chí du lịch Business Insider của Mỹ bình chọn là 1 trong 12 hang động ấn tượng nhất thế giới và Tạp chí National Geographic phiên bản tiếng Nga bình chọn là tour du lịch mạo hiểm đẳng cấp nhất thế giới của năm 2014; Tuyến du lịch trên sông Mê Kông (đoạn Việt Nam-Campuchia) được báo Telegraph (Anh) xếp thứ 4/5 tuyến du lịch trên sông hàng đầu châu Á…
Trong số các điểm đến này, rất nhiều điểm có tiềm năng và hội tụ đầy đủ các yếu tố phát triển Du lịch cộng đồng. Đây cũng là một hướng đi rất có tiềm năng, không chỉ giúp phát triển kinh tế du lịch mà còn giúp nâng cao mức sống, nhận thức về việc bảo tồn các giá trị tự nhiên, văn hóa truyền thống cũng như mở ra các cơ hội giao lưu, học hỏi cho cộng đồng người dân tại điểm đến du lịch. Đó cũng chính là cơ hội để các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng phát triển hoạt động kinh doanh cũng như tăng cường hiệu quả của các tác động xã hội mà nó mang lại.
* Ngày 22/01/2013, Thủ thướng Chính phủ đã ra quyết định số 201/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Trong đó, xác định rõ mục tiêu phát triển về văn hóa, an sinh – xã hội và môi trường là góp phần bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam, phát triển thể chất, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, tăng cường đoàn kết, hữu nghị, tinh thần tự tôn dân tộc; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, góp phần giảm nghèo, đảm bảo an sinh và giải quyết các vấn đề xã hội; phát triển du lịch xanh, gắn hoạt động du lịch với gìn giữ và phát huy các giá trị tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đây cũng chính là tôn chỉ hoạt động của rất nhiều các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng đang hướng tới.
Để đạt được những mục tiêu này, định hướng phát triển chủ yếu các sản phẩm du lịch đã được xác định rõ trong quy hoạch:
+ Ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu lối sống. Phát triển mạnh du lịch ẩm thực. Phát huy các giá trị văn hóa vùng miền làm nền tảng cho các sản phẩm du lịch đặc trưng.
+ Đẩy mạnh phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái, chú trọng khám phá hang động, du lịch núi, du lịch sinh thái nông nghiệp, nông thôn.
Đây cũng chính là nội dung của các sản phẩm Du lịch cộng đồng mà các Doanh nghiệp xã hội đang triển khai.
Với định hướng này, quy hoạch đã đưa ra các nhóm giải pháp, trong đó có nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách xã hội hóa về du lịch, là: khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng, du lịch có trách nhiệm đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo; khuyến khích việc đóng góp từ thu nhập du lịch cho hoạt động bảo tồn, phục hồi các giá trị về sinh thái, văn hoá và phát triển du lịch xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Như vậy, được sự hỗ trợ từ các chính sách xã hội hóa phát triển du lịch của nhà nước, các Doanh nghiệp xã hội có hoạt động Du lịch cộng đồng chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội hơn để phát triển cũng như phát huy những tác động tích cực tới xã hội, môi trường.
* QĐ số 2714/QĐ-BVHTTDL Phê duyệt đề án “Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.” xác định rõ ưu tiên phát triển 4 dòng sản phẩm chính, trong đó có 2 dòng sản phẩm có thể phát triển với mô hình Du lịch cộng đồng, đó là:
– Các sản phẩm du lịch văn hóa gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu văn hóa, lối sống địa phương, phát triển du lịch làng nghề và Du lịch cộng đồng kết hợp nghỉ tại nhà dân,
– Các sản phẩm sinh thái, chú trọng khám phá đa dạng sinh học, hang động, du lịch vùng núi, du lịch sinh thái nông nghiệp nông thôn.
Để phát triển các loại sản phẩm này, các nhóm giải pháp được đề xuất, trong đó giải pháp nâng cao nhận thức về phát triển sản phẩm du lịch cho cộng đồng cũng được xác định rõ. Đây cũng chính là một trong những mục tiêu mà các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng hướng tới trong sứ mệnh hoạt động của mình.
Với những định hướng được xác định rõ trong quy hoạch và chiến lược phát triển du lịch quốc gia, cơ hội dành cho Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng sẽ ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, góp phần gia tăng những tác động tích cực, mang lại hiệu quả xã hội cho nhiều đối tượng.
* Luật Doanh nghiệp 2014 đã chính thức công nhận Doanh nghiệp xã hội là một loại hình doanh nghiệp trong hệ thống các doanh nghiệp trong nước. Sau rất nhiều năm chờ đợi cùng với nỗ lực vận động chính sách của rất nhiều các cá nhân và tổ chức xã hội trong và ngoài nước, các Doanh nghiệp xã hội đang có nhiều cơ hội phát triển mang tính bước ngoặt khi lần đầu tiên được công nhận về pháp lý.
Việc luật hóa Doanh nghiệp xã hội với các định hướng phát triển loại hình doanh nghiệp này như một giải pháp thay thế các nguồn vốn viện trợ nước ngoài, cùng chung tay với nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, môi trường và cộng đồng, đã giúp các tổ chức kinh doanh có hoạt động xã hội vững tâm và kiên định hơn với con đường mà mình đã chọn. Bởi chắc chắn rằng, cùng với việc luật hóa Doanh nghiệp xã hội, sẽ có nhiều hơn nữa các nghiên cứu và chính sách cụ thể được đưa ra nhằm khuyến khích và hỗ trợ loại hình doanh nghiệp này phát triển. Và cùng với các cơ hội cho Doanh nghiệp xã hội nói chung, các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng nói riêng chắc chắn cũng sẽ có nhiều hơn cơ hội phát triển hơn. Đây cũng có thể được coi là một trong những bước tiến đầu tiên tạo nền tảng để các Doanh nghiệp xã hội có thêm động lực để ngày càng phát huy nhiều hơn nữa những tác động mà nó cam kết mang lại cho xã hội.
* Khối doanh nhân đang ngày càng trưởng thành, trong đó các Doanh nhân xã hội đều là những con người sáng tạo, có tầm nhìn và đặc biệt là có đam mê được cống hiến cho xã hội. Họ chính là nhân tố cung cấp các kinh nghiệm quý báu và cả các nguồn vật lực cho Doanh nghiệp xã hội, nhất là trong thời kỳ đầu khởi nghiệp, giúp các Doanh nghiệp xã hội tự tin và vững mạnh hơn trong quá trình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vô cùng gay gắt.
* Cùng với sự tăng trưởng nhanh về kinh tế, Việt Nam đã thoát ra khỏi danh sách các nước có thu nhập thấp, nguồn vốn trong nền kinh tế đã dồi dào và chủ động hơn trước, mức sống của đại đa số người dân cũng được nâng cao hơn. Điều này khiến các nguồn hỗ trợ phát triển của một số quốc gia và tổ chức quốc tế ở Việt Nam thay đổi theo hướng giảm dần. Nếu không có những giải pháp phù hợp, chúng ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nguồn vốn cho các hoạt động phát triển cộng đồng trong tương lai. Theo báo cáo thống kê từ diễn đàn “Việt Nam, thị trường mới nổi cho đầu tư xã hội” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức vào năm 2013 thì hiện nay Việt Nam có khoảng 27% dân số thuộc đối tượng cần hỗ trợ như: hộ nghèo và cận nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người mãn hạn tù, người bị nhiễm HIV/AIDS, người già neo đơn.
Bên cạnh đó, hàng loạt các vấn đề xã hội khác như bạo lực gia đình, giáo dục và y tế quá tải, xử lý rác thải, ô nhiễm môi trường, tiết kiệm năng lượng, bảo tồn văn hóa…cần phải giải quyết. Trong khi Nhà nước phải dành nhiều sự quan tâm tới công cuộc phát triển kinh tế thì nguồn vốn dành cho việc giải quyết xã hội chỉ có giới hạn nhất định. Vì vậy, phát triển Doanh nghiệp xã hội nói chung và Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng nói riêng trong bối cảnh như vậy là rất cần thiết và Nhà nước luôn có định hướng và chính sách ưu đãi nhất định để phát huy những giá trị mà loại hình doanh nghiệp này mang lại cho xã hội.
* Theo Nghiên cứu của Quỹ Châu Á (2011) về đóng góp từ thiện thì Việt Nam là một trong số những nước có tiềm lực đóng góp cho các hoạt động từ thiện khá lớn. Tuy nhiên, hầu hết các hoạt động này chỉ diễn ra theo hướng tự phát, quy mô nhỏ và hạn chế trong phạm vi cộng đồng hẹp.Vì thế, mức độ ảnh hưởng và sự chuyên nghiệp chưa cao. Do đó, trong bối cảnh khó khăn kinh tế của nước ta hiện nay, xu hướng tái cơ cấu, thắt chặt tài khóa, cắt giảm nợ công của Chính phủ, và trước các vấn đề xã hội, môi trường ngày càng tăng và trở nên phức tạp, Chính phủ cũng như toàn xã hội phải ngày càng nỗ lực để có thể kiểm soát và giải quyết các vấn đề đó. Vì vậy, phát triển các Doanh nghiệp xã hội trong nền kinh tế là rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
Với những cơ hội trên đây, nếu Nhà nước có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ và ưu đãi cụ thể hơn nữa thì chắc chắn các Doanh nghiệp xã hội nói chung và Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng nói riêng sẽ có nhiều cơ hội để phát triển, góp phần lan tỏa những giá trị tích cực mà nó mang lại cho xã hội.
2. Thách thức trong việc phát triển doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng tại Việt Nam
Bên cạnh những thuận lợi trong việc phát triển Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng tại Việt Nam như đã kể trên thì việc phát triển loại hình doanh nghiệp này vẫn còn gặp không ít khó khan và thách thức:
* Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc phát triển hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp truyền thống đã là rất khó khăn. Vậy mà đối với các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng, ngoài việc phải đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp còn phải đảm bảo thực hiện mục tiêu xã hội đã cam kết thì lại càng khó khăn hơn nhiều. Trong đó, khả năng tìm kiếm và tiếp cận thị trường là một trong những thách thức lớn nhất đối với các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng bởi chất lượng nguồn nhân lực phục vụ Du lịch cộng đồng là rất hạn chế.
Bên cạnh đó, các Doanh nhân xã hội thường là những người có đam mê, khao khát được cống hiến và giải quyết các vấn đề xã hội nhưng họ thường không có chuyên môn và được đào tạo bài bản về lĩnh vực du lịch. Chính sự yếu kém trong nguồn nhân lực này đã khiến các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng gặp nhiều thách thức trong quá trình tìm kiếm và phát triển thị trường.
* Mặc dù đã được luật hóa chính thức trong Luật doanh nghiệp 2014 với định hướng hỗ trợ chính sách phát triển Doanh nghiệp xã hội trong Nghị định 96/NĐ-CP của Chính phủ nhưng tất cả đều mới dừng lại ở những quy định về tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội cũng như các quy định về đăng ký kinh doanh cũng như các quy định về tiếp nhận tài trợ, viện trợ và đặc biệt là định hướng chính sách phát triển đối với các Doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, các chính sách này chỉ dừng lại ở định hướng các chính sách hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp xã hội bao gồm:
– Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thành lập Doanh nghiệp xã hội có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng.
– Doanh nghiệp xã hội được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật.
– Doanh nghiệp xã hội thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với từng loại hình doanh nghiệp và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Nghị định này.
Như vậy, tất cả các chính sách này đều chỉ dừng lại ở các định hướng chứ chưa có các chính sách cụ thể. Điều này khiến cho các Doanh nghiệp xã hội nói chung và Doanh nghiệp xã hội nói riêng có xu hướng chờ đợi các văn bản pháp luật quy định cụ thể về các chính sách ưu đãi và khuyến khích. Đây cũng là lý do giải thích tại sao, sau gần 2 năm được luật hóa, mới chỉ có một Doanh nghiệp xã hội duy nhất đăng ký kinh doanh trở thành Doanh nghiệp xã hội đúng theo pháp luật.
Trong khi đó, Doanh nghiệp xã hội dù đã đăng ký hay chưa vẫn chịu thuế và các chính sách thương mại như các doanh nghiệp truyền thống. Điều này là không công bằng bởi mục tiêu và sứ mệnh kinh doanh của hai loại hình doanh nghiệp này là hoàn toàn khác nhau. Một bên là tối đa hóa lợi nhuận cho các cổ đông, một bên là tối đa hóa hiệu quả xã hội mang lại cho cộng đồng. Vậy mà các chính sách thuế, chính sách thương mại phải chịu tác động là giống nhau. Với bối cảnh như vậy, các Doanh nghiệp xã hội vốn đã rất khó khăn trong việc duy trì hoạt động kinh doanh thì lại càng gặp nhiều khó khăn hơn nữa khi vừa phải xoay sở với hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận để giải quyết các vấn đề xã hội. Nếu không có những giải pháp về chính sách hợp lý thì chắc chắn rằng việc phát triển loại hình doanh nghiệp này thực sự là một thử thách rất khó vượt qua.
Vì vậy, để thúc đẩy các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng phát triển, rất cần sự hoàn thiện hơn nữa về mặt thể chế và chính sách của nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này.
* Tuy xuất hiện từ khá lâu rồi nhưng Doanh nghiệp xã hội còn rất mới mẻ đối với người dân Việt Nam. Chính vì thế, nhận thức của cộng đồng về Doanh nghiệp xã hội nói chung và Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng nói riêng còn rất hạn chế. Trong tư duy truyền thống, có hai loại hình hoạt động riêng rẽ, đó là hoạt động thương mại và hoạt động từ thiện. Hai hoạt động này thường tồn tại độc lập. Việc kết hợp hình thức kinh doanh để tái đầu tư thực hiện các mục tiêu xã hội đôi khi làm dấy lên sự sự nghi ngờ trong một bộ phận cộng đồng về tính thương mại hóa của các hoạt động xã hội. Nếu cộng đồng không thực sự có cái nhìn thấu đáo về vấn đề này, hoạt động kinh doanh chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, thử thách.
* Hiện nay, sau Luật doanh nghiệp, các chính sách của Chính phủ về phát triển Doanh nghiệp xã hội mới chỉ dừng lại ở việc định hướng. Trong khi đó, bên cạnh các chính sách phát triển, các Doanh nghiệp xã hội nói chung và Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng nói riêng đang rất cần một hệ sinh thái thuận lợi để phát triển. Hệ sinh thái này bao gồm tổng thể sự phối hợp từ các bên liên quan tới sự phát triển của các Doanh nghiệp xã hội bao gồm:
– Nhà nước:
Vai trò của Nhà nước rất quan trọng trong việc tạo môi trường hoạt động cho các doanh nghiệp nói chung và Doanh nghiệp xã hội nói riêng. Vai trò này được thể hiện trong những chính sách khuyến khích về tài chính, nguồn nhân lực cũng như sự hỗ trợ về pháp lý trong việc thừa nhận và khuyến khích phát triển.
– Các tổ chức tài chính:
Các tổ chức tài chính chính là những nhân tố thúc đẩy tạo động lực cho các Doanh nghiệp xã hội phát triển bằng cách cung cấp tài trợ, vốn vay cũng như đóng góp cổ phần cho các hoạt động của Doanh nghiệp xã hội. Với sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính, các Doanh nghiệp xã hội sẽ được củng cố về nguồn vật lực, giúp nâng cao xuất phát điểm của mình. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong thời kỳ đầu thành lập và hoạt động của các tổ chức kinh doanh theo mô hình Doanh nghiệp xã hội.
– Các cơ sở giáo dục:
Các cơ sở giáo dục có vai trò đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn, nghiên cứu phát triển năng lực nguồn nhân lực cho các Doanh nghiệp xã hội. Chỉ khi chất lượng nguồn nhân lực cao thì chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp mới có thể thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Trong bối cảnh hiện tại, khi nguồn nhân lực lao động trong các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng chủ yếu là các đối tượng yếu thế trong xã hội, các Doanh nhân xã hội hầu hết không được đào tạo bài bản về kinh doanh du lịch thì việc quản trị doanh nghiệp cũng như vận hành hoạt động kinh doanh là hết sức khó khăn. Để tạo động lực cho các Doanh nghiệp xã hội này phát triển thì chất lượng nguồn nhân lực lao động luôn là một vấn đề cần quan tâm hàng đầu. Vì thế, trong hệ sinh thái cho các Doanh nghiệp xã hội phát triển, vai trò của các tổ chức, cơ sở đào tạo, giáo dục là không thể thiếu. Sự tham gia và hỗ trợ của các tổ chức này sẽ giúp các Doanh nghiệp xã hội đẩy mạnh sự phát triển về chất, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp xã hội trong quá trình hoạt động trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
– Truyền thông:
Doanh nghiệp xã hội là một loại hình doanh nghiệp mới. Đây là sự kết hợp hoạt động kinh doanh với việc thực hiện các mục tiêu vì xã hội. Tuy nhiên, tư duy truyền thống về việc phân định rõ ràng giữa hoạt động kinh doanh mang tính thương mại với các hoạt động từ thiện đã trở thành một rào cản trong việc nhận thức đúng đắn về loại hình doanh nghiệp này. Chính vì thế, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng xã hội đối với các Doanh nghiệp xã hội nói chung và Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng nói riêng có vai trò quan trọng trong việc giúp các Doanh nghiệp xã hội được thừa nhận, cả về mặt pháp lý, cả về ý nghĩa mà nó mang lại cho xã hội. Khi nhận thức của cộng đồng được nâng cao, các hoạt động hỗ trợ, ưu đãi cho các Doanh nghiệp xã hội sẽ được đẩy mạnh. Từ đó, sẽ khuyến khích các doanh nghiệp này thúc đẩy liên kết theo cả chiều ngang và chiều dọc, thúc đẩy hoạt động kinh doanh, mang lại lợi nhuận, phục vụ cho các hoạt động xã hội, vì cộng đồng.
– Các tổ chức trung gian:
Trong giai đoạn đầu phát triển Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam, vai trò của các tổ chức trung gian là vô cùng lớn. Chính những nỗ lực của các tổ chức trung gian trong việc vận động chính sách đã góp phần rất lớn trong việc giúp các Doanh nghiệp xã hội nói chung được thừa nhận, thể hiện bằng việc các Doanh nghiệp xã hội được chính thức luật hóa, trở thành một loại hình doanh nghiệp chính thức trong hệ thống các loại hình doanh nghiệp của nước ta. Từ đây, Doanh nghiệp xã hội chính thức có một vị thế trong nền kinh tế quốc gia, khẳng định được sự đóng góp cả về kinh tế và xã hội mà nó có thể mang lại. Vì thế, có thể nói, sự tham gia của các tổ chức trung gian vào hệ sinh thái phát triển Doanh nghiệp xã hội là một việc rất cần thiết.
Đối với các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng, các tổ chức trung gian này chính là những tổ chức vận động chính sách, các tổ chức triển khai các hoạt động tăng cường và nâng cao năng lực hoạt động của Doanh nghiệp xã hội, nuôi dưỡng và kết nối mạng lưới, nguồn lực cho các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch nói chung và Du lịch cộng đồng nói riêng.
Hiện nay, đang ở giai đoạn đầu phát triển nên các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng mới chỉ có chính sách và định hướng cơ bản. Điều này tạo ra sự e dè trong việc phát triển loại hình này khi các chính sách khuyến khích, hỗ trợ chưa thực sự được đề cập một cách chính thống với một hệ sinh thái chưa rõ ràng và có thể tạo động lực cho các Doanh nghiệp xã hội phát triển.
* Thiếu vốn đầu tư phát triển xã hội
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là một trong các yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tăng trưởng kinh tế, ổn định và phát triển xã hội, bảo vệ, cải thiện môi trường. Vốn đầu tư phát triển xã hội là toàn bộ tiền vốn được chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì năng lực sản xuất và nguồn lực để nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của toàn xã hội trong một thời kỳ nhất định. Mặc dù trong những năm gần đây đã có sự cải thiện trong nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội nhưng nhìn chung nguồn vốn này chưa đủ để có thể tạo ra sự chuyển biến tích cực cho cộng đồng xã hội và môi trường. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, nếu như tổng vốn đầu tư phát triển xã hội năm 2013 là 1091.1 nghìn tỷ đồng (chiếm 30.4% GDP) và tăng dần qua các năm 2014 đạt 1220,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11,5% so với năm 2013 và bằng 31% GDP thì đến năm 2015 tổng vốn này đạt 1367,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2014 và bằng 32,6% GDP.
Tuy nhiên, theo Báo cáo thẩm tra kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2014 và 4 năm 2011-2014 và Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011 – 2015 chỉ đạt khoảng 30,1% GDP là quá thấp so với kế hoạch đề ra (33,5 – 35% GDP). Điều này cho thấy sự ưu tiên của những chính sách nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường, vì lợi ích cộng đồng là chưa thực sự được quan tâm đúng mức trong khi còn rất nhiều vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Nếu những vấn đề xã hội không được giải quyết tận gốc, chất lượng cuộc sống của cộng đồng không được đảm bảo thì đất nước không thể phát triển một cách bền vững. Vì thế, sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư xã hội cũng được coi là một trong những thử thách trong quá trình phát triển các Doanh nghiệp xã hội.
Tóm lại, có thể đánh giá một cách tổng quát, việc phát triển các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng chưa có sự kết hợp hài hòa giữa phát triển theo chiều rộng với phát triển theo chiều sâu. Qua phân tích cho thấy, cơ hội phát triển các Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng tại Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, những thách thức trong việc phát triển loại hình doanh nghiệp này cũng không nhỏ, chủ yếu là thách thức về việc thiếu một hệ sinh thái hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng. Trong đó một trong những thách thức lớn nhất đến từ khung pháp lý cũng như hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển loại hình doanh nghiệp này. Vì vậy, để có thể tận dụng cơ hội cũng như hạn chế những tác động của các thách thức đến từ môi trường vĩ mô, rất cần những giải pháp cụ thể, đồng bộ trong ngắn hạn cũng như dài hạn để phát huy những hiệu quả cũng như các tác động tích cực mà loại hình doanh nghiệp này mang lại.
Tham khảo thêm
- Vũ Hương Giang (2019). Nghiên cứu phát triển doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế. Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương. Hà Nội.
- Skoll Centre for Social Entrepreneurship