Để phát triển loại hình Doanh nghiệp xã hội (DNXH) trong lĩnh vực Du lịch cộng đồng (DLCĐ) một cách bền vững nhằm đảm bảo hài hòa các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường tại điểm đến DLCĐ, rất cần những giải pháp cụ thể và đồng bộ để phát triển các doah nghiệp này cả về số lượng lẫn chất chất lượng. Đây cũng chính là định hướng phát triển các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tại Việt Nam trong thời gian tới nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp này theo cả chiều rộng và chiều sâu.
1. Nhóm giải pháp phát triển doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng theo chiều rộng
Mục tiêu của nhóm giải pháp này là:
Mục tiêu của nhóm giải pháp này là tạo môi trường thuận lợi cho các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ hoạt động và phát triển. Chỉ khi các tổ chức kinh doanh hoạt động theo mô hình DNXH trong lĩnh vực DLCĐ hiện nay nhận thức được về những thuận lợi trong việc hoạt động dưới hình thức một DNXH thực sự (theo đúng luật Doanh nghiệp) thì họ mới có động lực đăng ký kinh doanh hoặc chuyển đổi thành DNXH.
Chính vì thế, những giải pháp trong nhóm giải pháp này sẽ hướng tới việc hoàn thiện môi trường kinh doanh cho các DNXH để thúc đẩy các tổ chức kinh doanh đăng ký hoạt động hoặc chuyển đổi thành DNXH. Theo đó, số lượng các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ sẽ từng bước tăng trưởng, từ đó hướng tới sự tăng trưởng về quy mô, cơ cấu của loại hình doanh nghiệp này.
1.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về doanh nghiệp xã hội
Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về DNXH nói chung sẽ là tiền đề để các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ ở Việt Nam mở rộng sự nhận diện của mình đối với tất cả các bên liên quan. Ở Việt Nam, hiểu biết của cộng đồng nói chung và giới trẻ nói riêng về DNXH vẫn chưa thực sự đầy đủ. Vì thế, việc tiêu dùng các sản phẩm của các DNXH vẫn còn hạn chế cũng như quyết định lựa chọn loại hình doanh nghiệp này để kinh doanh, khởi nghiệp vẫn còn là một vấn đề rất cần cân nhắc. Do đó, nhà nước cần có những chính sách cụ thể nhằm nâng cao sự hiểu biết của cộng đồng và đặc biệt là giới trẻ, giúp họ có thêm lựa chọn khi khởi nghiệp đồng thời lan tỏa những giá trị nhân văn trong cộng đồng.
Để khuyến khích, thúc đẩy DNXH tại Việt Nam lớn mạnh cả về số lượng và quy mô, một số giải pháp chính sách sau đây có thể được xem xét thực hiện:
– Đẩy mạnh truyền thông dưới nhiều hình thức khác nhau, từ các phương tiện đại chúng cho đến những người ủng hộ để truyền tải, phổ biến và giải thích khái niệm và các vấn đề liên quan đến DNXH. Thông qua các thông tin, tài liệu về DNXH, Doanh nhân xã hội, qua các số liệu thống kê, qua các đóng góp của DNXH với xã hội, sự hiểu biết của người dân về DNXH và Doanh nhân xã hội sẽ được nâng cao.
Ngoài ra, các sách báo, phương tiện thông tin đại chúng cũng góp phần không nhỏ trong việc mang DNXH lại gần dân hơn. Bằng cách đó, các DNXH sẽ thu hút được sự quan tâm từ nhiều nguồn khác nhau. Và như vậy, sẽ thu hút được nhiều khách du lịch hơn đến với điểm du lịch cộng đồng cũng như sự quan tâm của họ tới mục tiêu xã hội mà doanh nghiệp theo đuổi.
– Trao giải thưởng, vinh danh các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ thành công và phát triển DNXH ở quy mô lớn hơn. Hoạt động này bên cạnh việc giúp các DNXH được ghi nhận, thúc đẩy họ có thêm động lực để cống hiến cho cộng đồng còn giúp cộng đồng và các DNXH khác nâng cao nhận thức về DNXH và những đóng góp của nó đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Những điển hình này cũng là động lực để các DNXH khác vững tin và kiên định vào con đường mà mình đã theo đuổi, góp phần cống hiến cho sự công bằng xã hội và sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội và môi trường.
– Đẩy mạnh việc tổ chức các Cuộc thi tìm kiếm DNXH trong lĩnh vực DLCĐ để tìm ra những Doanh nhân xã hội và dự án tiềm năng, được tài trợ vốn khởi nghiệp cho thời gian đầu. Đây là hoạt động đã được một số tổ chức phi chính phủ triển khai với đối tượng là cộng đồng DNXH nói chung nhưng do hạn chế về nguồn tài trợ nên số lượng các DNXH được tài trợ vốn khởi nghiệp vẫn còn rất hạn chế. Vì thế, nếu nhà nước chung tay tổ chức các cuộc thi tìm kiếm DNXH như thế này thì hiệu quả tác động sẽ rộng lớn hơn, nhiều DNXH trong lĩnh vực DLCĐ sẽ tích cực khởi nghiệp và có nhiều động lực kinh doanh hơn.
1.2. Giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về doanh nghiệp xã hội
1.2.1. Hoàn thiện các chính sách
DNXH là doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu lợi ích xã hội làm chủ đạo. Tuy vậy, mục tiêu kinh tế cũng được coi trọng không kém khi góp phần tạo việc làm, ổn định an sinh xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần xây dựng khung khổ pháp lý và môi trường thuận lợi cho DNXH phát triển để có thể phát huy hết những giá trị mà nó mang lại cho sự phát triển bền vững ở cả ba trụ cột kinh tế – xã hội và môi trường. Đây cũng là một trong những thách thức lớn nhất đối với sự phát triển các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tại Việt Nam hiện nay.
Với việc thông qua Luật Doanh nghiệp sửa đổi vào 26/11/2014, trong đó lần đầu tiên đưa ra quy định về DNXH, các DNXH đã bước đầu có nền tảng pháp lý để phát triển hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi. Khi có Luật, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội sẽ chuyển đổi và vận hành theo Luật mới nhưng yếu tố cốt lõi là phải tạo được một môi trường kinh doanh thuận lợi với những chính sách khuyến khích, ưu đãi cụ thể thì mới có thể thu hút và phát triển loại hình doanh nghiệp này.
Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù đã được công nhận về mặt pháp lý nhưng cũng như bất kỳ một doanh nghiệp khác, các DNXH tồn tại dưới các hình thức pháp lý khác nhau như công ty TNHH, công ty cổ phần…Tuy nhiên, DNXH khác doanh nghiệp khác ở chỗ nó hoạt động để giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường. Như vậy, tìm kiếm lợi nhuận không phải là mục tiêu cuối cùng. Lợi nhuận chỉ là mục tiêu trung gian, lấy lợi nhuận để tiếp tục phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội. Vì vậy, để khuyến khích các DNXH nói chung và DNXH trong lĩnh vực DLCĐ nói riêng phát triển, nhà nước cần phát triển một một hệ thống các chính sách với những quy định cụ thể, thống nhất và riêng biệt đối với từng lĩnh vực, với những khuyến khích và ưu đãi cụ thể để tạo động lực cho các DNXH phát triển.
Việt Nam là nước theo hệ thống dân luật, lấy việc ban hành các khung pháp lý/ quy định chung làm cơ sở cho việc áp dụng các trường hợp cụ thể. Bên cạnh những chủ trương, chính sách của nhà nước về khuyến khích phát triển và sự tham gia của các DNXH, khung pháp lý hiện tại của Việt Nam khá phức tạp với nhiều văn bản luật điều chỉnh các loại hình tổ chức khác nhau, ở nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm cả văn bản điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp:
Các văn bản điều chỉnh trực tiếp:
– Hiến pháp;
– Luật Doanh nghiệp;
– Các văn bản luật và văn bản dưới luật khác;
Các văn bản điều chỉnh gián tiếp:
– Các văn bản luật về thuế;
– Các văn bản luật về dịch vụ xã hội, dịch vụ gắn với nhiệm vụ của nhà nước;
– Các văn bản luật về tài chính, ngân sách, tài trợ, viện trợ;
– Các văn bản luật về đảm bảo sự tham gia của công chúng;
– Các văn bản luật về phân cấp quản lý;
– Các văn bản luật liên quan hoạt động thanh tra, kiểm tra, khiếu nại;
– Văn bản khác.
Nhìn vào hệ thống văn bản pháp lý như trên, có thể nói Việt Nam đã có một khung pháp lý tương đối đầy đủ với nhiều loại văn bản khác nhau, tạo điều kiện cho nhiều loại hình doanh nghiệp phát triển. Khung pháp lý này cho phép thành lập và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp một cách đa dạng ở nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trên thực tế có thể thấy, những nội dung về việc vận hành và phát triển các DNXH mới chỉ dừng lại ở những quy định trong Luật Doanh nghiệp, chưa hề có những quy định cụ thể ở những văn bản điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp.
Vì thế, để thực sự tạo ra một môi trường thuận lợi cho các DNXH phát triển, rất cần xây dựng một hệ thống các văn bản điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp với những quy định cụ thể từ việc thành lập, vận hành và phát triển loại hình doanh nghiệp này. Có thể thấy, trong thực tiễn hoạt động của các DNXH, những khó khăn, thách thức lớn nhất hiện nay đối với sự phát triển các DNXH đó là những rào càn pháp lý về việc tiếp cận vốn, về thuế và các quy định tiếp nhận hỗ trợ, viện trợ.
Do đó, trong khi vừa phải đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả vừa phải sử dụng lợi nhuận thu lại từ hoạt động kinh doanh để thực hiện mục tiêu xã hội đã cam kết, các DNXH sẽ rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp truyền thống để duy trì hoạt động của chính mình trên thị trường nếu không có những biện pháp và chính sách hỗ trợ, ưu đãi cụ thể từ phía Nhà nước. Chính bởi những rào cản này đã khiến các DNXH rất khó nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Và khi hoạt động kinh doanh không hiệu quả, yếu tố kinh tế không được đảm bảo thì những tác động xã hội mà nó mang lại chắc chắn không bền vững.
Vì vậy, để có thể tạo môi trường thuận lợi nhất cho các DNXH nói chung và các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ nói riêng phát triển, rất cần những chính sách của nhà nước với những quy định cụ thể về:
– Chiến lược phát triển DNXH
Hiện nay, DNXH đã bước đầu được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi bằng việc luật hóa DNXH, chính thức công nhận DNXH là một loại hình doanh nghiệp chính thức trong hệ thống các doanh nghiệp nước nhà. Trong một số chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, nhà nước đã có những định hướng ưu tiên phát triển các loại hình kinh doanh xã hội, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, định hướng là vậy nhưng chưa hề có những chiến lược cụ thể phát triển các DNXH. Việc xác định rõ các chiến lược phát triển DNXH sẽ giúp nhà nước đi đúng hướng trong việc xây dựng những chính sách cụ thể nhằm khuyến khích và hỗ trợ loại hình doanh nghiệp này phát triển, giúp phát huy những lợi ích mà nó có thể mang lại cho xã hội, cho nền kinh tế và cho môi trường.
– Hoạt động chuyển đổi và thành lập DNXH
Hiện nay, tất nhiều các tổ chức và doanh nghiệp lấy việc thực hiện các mục tiêu xã hội làm sứ mạng hoạt động của mình. Điều này thể hiện rõ trong những đóng góp xã hội mà họ mang lại. Tuy nhiên, trên thực tế, với rất nhiều tổ chức/ doanh nghiệp ở Việt Nam có đầy đủ các yếu tố cấu thành DNXH mà đến thời điểm cuối năm 2017 mới chỉ có khoảng 20 doanh nghiệp đăng ký trở thành DNXH theo đúng Luật doanh nghiệp. Đây là một thực tế thể hiện sự dò xét của các tổ chức/ doanh nghiệp khi hệ thống các văn bản với những quy định cụ thể về việc thành lập cũng như hoạt động của các DNXH chưa thực sự hoàn thiện với những quy định rõ ràng, cụ thể.
Chính vì thế, để thu hút các tổ chức/ doanh nghiệp có hoạt động xã hội tích cực tham gia và đăng ký kinh doanh dưới hình thức DNXH, nhà nước cần triển khai nhiều hơn nữa hệ thống các văn bản pháp lý về DNXH với những quy định cụ thể về những khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ. Chỉ khi các tổ chức/ doanh nghiệp nhận thấy nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động vận hành và kinh doanh thì họ mới có động lực để đăng ký kinh doanh dưới hình thức DNXH. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có những văn bản hướng dẫn về đăng ký DNXH với những quy trình và biểu mẫu văn bản cụ thể phục vụ công tác quản lý hành chính.
Tuy nhiên, vẫn chưa có những quy định về việc chuyển đổi DNXH. Trong khi hiện nay có một số lượng lớn các doanh nghiệp/ tổ chức đang hoạt động có nhu cầu và tiềm năng chuyển đổi thành DNXH. Vì vậy, việc xây dựng những quy định về chuyển đổi DNXH là cần thiết. Những quy định này cần tính đến các tiêu chí chuyển đổi phù hợp nhất, đảm bảo tính chặt chẽ trong công tác quản lý nhà nước về doanh nghiệp trong khi vẫn tạo được nhiều cơ hội cho các tổ chức/ doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dưới hình thức DNXH để có thể phát huy hết những lợi ích và giá trị mà nó mang lại.
Với rất nhiều tổ chức có đầy đủ yếu tố cấu thành DNXH, trong đó có rất nhiều hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp TNHH, các công ty cổ phần đang hoạt động như các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ. Đây nên là đối tượng được xem xét đầu tiên trong quá trình hỗ trợ tạo điều kiện chuyển đổi thành các DNXH. Qua những phân tích trên, có thể rút ra một số giải pháp để hỗ trợ chuyển đổi những nhóm đối tương này thành DNXH như sau:
– Một là, các doanh nghiệp/ tổ chức này cần xác định rõ lại sứ mệnh hoạt động của doanh nghiệp mình có thực sự là đặt mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội lên hàng đầu hay không , sau đó đăng ký lại theo loại hình DNXH với những cam kết cụ thể về việc chia sẻ lợi nhuận cho các hoạt động xã hội, vì lợi ích cộng đồng.
– Hai là, cần hỗ trợ khả năng tiếp cận cho sự tham gia của các DNXH trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích. Các giải pháp này sẽ góp phần tạo điều kiện thúc đẩy các loại hình kinh doanh khác có thể chuyển đổi thành một DNXH thực thụ hoạt động theo đúng luật định về DNXH, tối đa hóa hiệu quả và tác động xã hội mà nó mang lại.
Bên cạnh đó, một nội dung khác song song với việc nghiên cứu các chính sách liên quan đến hoạt động chuyển đổi và thành lập mới DNXH là việc sàng lọc các doanh nghiệp đảm bảo các DNXH hoạt động đúng bản chất của mô hình DNXH để làm cơ sở xác định các đối tượng doanh nghiệp thụ hưởng các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Để làm được điều này, có thể học hỏi áp dụng quy trình cấp chứng nhận DNXH đã được Chính phủ Thái Lan áp dụng. Các giai đoạn của quy trình cấp chứng nhận Doanh nghiệp xã hội (SE journey) này bao gồm:
– Giai đoạn 1: Đăng ký (Registering): Bất kỳ DNXH đủ các tiêu chí đăng ký DNXH đã được xác định trong luật định, hoạt động dưới bất cứ loại hình nào (NGO, công ty, Hợp tác xã…) đều có thể đăng ký.
– Giai đoạn 2: Đánh dấu (Marking): Trong giai đoạn này, DNXH được phân loại A,B,C hoặc theo màu sắc từ Đỏ- Xanh, tương tự như Fair Trade. Có nhiều tiêu chí để phân loại, trong số đó tiêu chí dễ áp dụng nhất là tỷ lệ lợi nhuận tái đầu tư trở lại cho mục tiêu xã hội. Ví dụ: Tỷ lệ tái đầu tư cho hoạt động xã hội từ 51% – 60% sẽ được hạng C; Tỷ lệ tái đầu tư cho hoạt động xã hội từ 61% – 70% sẽ được hạng B; Tỷ lệ tái đầu tư cho hoạt động xã hội từ 71% trở lên sẽ được hạng A. Các sản phẩm, dịch vụ của các DNXH này sẽ được dán nhãn sản phẩm của DNXH để giúp hiệu quả tiêu thụ tốt hơn. Đồng thời, Chính phủ sẽ có những quy định cho các Doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức Chính phủ phải ưu tiên mua hàng có nhãn DNXH.
– Giai đoạn 3: Chứng nhận (Accrediting): Những DNXH ở từng hạng sẽ nhận được những hỗ trợ tương ứng từ phía Nhà nước với những chính sách hỗ trợ cụ thể. Tuy nhiên, để nhận được hỗ trợ này các DNXH phải bắt buộc giải quyết được các vấn đề xã hội, cộng đồng, môi trường và bắt buộc phải có hoạt động kinh doanh thay vì chỉ nhận tài trợ với tỷ lệ tái đầu tư trở lại từ 51% lợi nhuận trở lên.
Như vậy, với các chính sách hoàn thiện khung pháp lý liên quan tới DNXH, những chính sách cụ thể hỗ trợ loại hình doanh nghiệp này phát triển sẽ có cơ sở vững chắc hơn để được nghiên cứu ban hành và thực thi.
– Các cơ hội tiếp cận vốn và hỗ trợ tài chính
Khó khăn lớn nhất của các DNXH hiện nay là yếu tố về vốn. Do phần lớn DNXH hoạt động ở quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính chưa mạnh, không có tài sản thế chấp nên khó tiếp cận vốn tín dụng. Nếu có vay được thì lãi suất vay thường cao hơn khả năng sinh lời của DNXH. Các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ kinh doanh trên thị trường với lợi suất tài chính thấp nên khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư thương mại rất thấp. Do đó, khả năng tiếp cận, huy động các nguồn vốn đầu tư thương mại rất hạn chế.
Vì thế, các DNXH nói chung và DNXH trong lĩnh vực DLCĐ nói riêng rất cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước trong việc mở rộng các cơ hội tiếp cận vốn và nhận hỗ trợ tài chính. Để làm được điều này, trước hết cần thực hiện việc chuẩn hóa, xếp loại, đánh giá các DNXH theo một hệ thống tiêu chí nhất quán, cụ thể, rõ ràng, công khai, minh bạch để dựa vào đó quy định những mức độ cụ thể đối với việc hỗ trợ vốn vay cho các DNXH. Đây là khâu quan trọng nhưng cũng là khó nhất trong việc đưa ra những tiêu chí cho việc tiếp cận và hỗ trợ vốn cho các DNXH, bởi nếu không có tiêu chí thống nhất sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng, lách luật, xung đột lợi ích; những tác động xã hội và động cơ không vì lợi nhuận sẽ rất khó để có thể đo lường.
Trong quá trình xây dựng, các tiêu chí cần được thiết kế một cách sát với thực tiễn hoạt động của các DNXH. Một hệ thống tiêu chí quá cao sẽ có thể làm mất đi động lực đối với DNXH và do đó sẽ cản trở việc khuyến khích, thu hút các DNXH mới. Vì thế, cần xây dựng một hệ thống tiêu chí với các công thức lượng hoá được cho một số loại tác động xã hội mà DNXH tạo ra, so sánh giữa chi phí đầu tư, chi phí cơ hội và hiệu quả thu được. Việc áp dụng kiểm toán tài chính và kiểm toán xã hội cũng nên được áp dụng rộng rãi hơn.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên có những khuyến khích đối với các ngân hàng thương mại xây dựng các gói hỗ trợ cho các DNXH trong DLCĐ với lãi suất, thời hạn vay ưu đãi, thủ tục dễ dàng tiếp cận. Nếu các ngân hàng thương mại hỗ trợ các DNXH thì nhà nước sẽ có chính sách hỗ trợ lại, tức là được cấp bù một phần lãi suất.
Làm được điều này, các DNXH sẽ có nhiều cơ hội củng cố và phát triển hoạt động kinh doanh của mình hơn.
Bên cạnh đó, nhà nước có thể tính tới việc hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các DNXH để mở rộng quy mô tác động xã hội thông qua một quá trình tuyển chọn, phân loại, theo dõi và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như đóng góp xã hội của các doanh nghiệp này. Công cụ tài chính được sử dụng có thể là các khoản tài trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất thấp nhưng chỉ thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Thời gian này nên là từ 3-5 năm để giúp cac DNXH nâng cao tính tự vững, đồng thời tránh sự ỷ lại của các cũng như đảm bảo tính hiệu quả của nguồn vốn vay). Việc hỗ trợ tài chính phải gắn chặt với hiệu quả của những tác động xã hội mà DNXH tạo ra.
Tuy nhiên, khi nói đến việc hỗ trợ tài chính cho các DNXH phát triển, cần tính đến nguồn tài chính cho các hoạt động hỗ trợ ấy. Và để phát triển nguồn tài chính bền vững hỗ trợ DNXH, rất cần phải thành lập Quỹ phát triển DNXH. Quỹ sẽ được tài trợ bằng ngân sách Nhà nước (NSNN) trên cơ sở trích một tỷ lệ nhất định (ví dụ: 10%) từ các khoản thu Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế thu nhập doanh nghiệp,…. Không chỉ giới hạn bởi nguồn ngân sách nhà nước, Quỹ còn mở rộng khả năng hợp tác, nhận tài trợ từ các tổ chức thiện nguyện và nhà đầu tư xã hội trong và ngoài nước.
Bên cạnh các công cụ tài chính hỗ trợ phát triển DNXH, việc miễn giảm thuế cho các DNXH cũng cần được nhà nước có những quan tâm cụ thể. Bởi xét cho cùng, khi các DNXH đặt việc thực hiện các mục tiêu xã hội làm sứ mạng hoạt động của mình chính là các DNXH đang hỗ trợ Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội, công việc vốn lẽ nhà nước phải sử dụng nguồn thu từ thuế để thực hiện trách nhiệm của mình. Vì vậy, sẽ hợp
lý hơn khi nhà nước miễn giảm thuế cho các DNXH này như một hành động hỗ trợ, chung tay cùng các DNXH giải quyết các vấn đề xã hội.
1.2.2. Thành lập đơn vị quản lý nhà nước về DNXH
Việc thành lập một đơn vị quản lý nhà nước và hỗ trợ cho các DNXH giúp đảm bảo việc hoạt động của doanh nghiệp được trôi chảy và thuận lợi hơn. Ngoài việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về DNXH, cơ quan này còn giúp thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các DNXH với nhau, liên kết DNXH với các doanh nghiệp tư nhân và với nhà nước nhằm tạo ra những cơ hội phát triển nhiều hơn cho loại hình doanh nghiệp này.
Bên cạnh đó, quan trọng nhất là đơn vị này sẽ có chức năng hỗ trợ các DNXH trong quá trình vận hành và phát triển với những chương trình và dự án ưu đãi, hỗ trợ cụ thể. Theo thông tin khảo sát, các DNXH cho rằng họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về những chính những chính sách cụ thể của nhà nước, về những chương trình ưu đãi, hỗ trợ cho các DNXH. Chính vì thế, đơn vị quản lý nhà nước về DNXH sẽ hỗ trợ các DNXH trong việc tiếp cận với những thông tin liên quan đến chính sách và những chương trình hỗ trợ cụ thể cho các DNXH.
Bên cạnh đó, đặc điểm về cơ cấu tổ chức và cách thức vận hành khiến nhiều DNXH gặp khó khăn trong quá trình hoạt động. Chẳng hạn như, có một thực tế là các DNXH sử dụng nguồn lao động chính là nhóm người yếu thế trong xã hội, vì thế năng lực và chất lượng nguồn lao động là một trong những khó khăn lớn đối với việc vận hành và phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ thì càng khó khăn hơn khi nguồn nhân lực lao động lại là một trong những yếu tố chính cấu thành nên sản phẩm DLCĐ cung cấp cho du khách.
Chính vì thế, các đơn vị quản lý nhà nước về DNXH sẽ có vai trò hỗ trợ các DNXH nói chung và DNXH trong lĩnh vực DLCĐ nói riêng trong việc xây dựng chính sách và lên kế hoạch triển khai các hoạt động hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này.
Các đơn vị quản lý nhà nước về DNXH trong lĩnh vực DLCĐ có thể là một bộ phận trực thuộc ban quản lý DLCĐ tại các địa phương bởi hơn hết, ban quản lý DLCĐ là đơn vị gần với cộng đồng nhất, dễ dàng giao tiếp, kết nối và giám sát hoạt động của các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tại địa phương. Bộ phận này sẽ đóng vai trò là cầu nối giữa nhà nước với cộng đồng và các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ để hỗ trợ thúc đẩy loại hình doanh nghiệp này phát triển.
1.2.3. Thành lập các tổ chức trung gian
Các tổ chức trung gian góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các DNXH, là cầu nối hỗ trợ những người có tinh thần xã hội có thể khởi sự kinh doanh xã hội bằng việc thành lập các DNXH hoặc là trợ giúp các DNXH mới thành lập có những bước đi đúng đắn để nâng cao khả năng “tự vững” của mình trong tương lai.
Các tổ chức trung gian cũng chính là đơn vị chịu trách nhiệm triển khai hoặc hỗ trợ Nhà nước triển khai các chương trình, chính sách khuyến khích, hỗ trợ DNXH giúp các chương trình, chính sách này mang lại hiệu quả cao hơn. Bởi khi các chính sách và chương trình ưu đãi cụ thể được thực hiện bởi một bên thứ ba chính là các tổ chức trung gian này thì các chính sách và chương trình ưu đãi sẽ được thực hiện một cách khách quan và dân chủ hơn, bởi nó giúp đảm bảo tính minh bạch trong cạnh tranh, tránh xung đột lợi ích và tham nhũng. Cũng chính bởi các tổ chức trung gian là bên thứ ba thực hiện việc triển khai các chính sách và ưu đãi của nhà nước đối với các DNXH nên các tổ chức này sẽ phải chịu sự giám sát của nhà nước trong quá trình hoạt động và các DNXH cũng có cơ hội phản ánh trực tiếp, khách quan cho các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng thẩm định và cung cấp dịch vụ của các tổ chức trung gian này trong quá trình hoạt động.
Các tổ chức trung gian sẽ có chức năng:
– Tham vấn cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc ban hành các chính sách, công cụ khuyến khích, hỗ trợ phát triển DNXH.
– Hỗ trợ nâng cao năng lực, đào tạo các kỹ năng quản lý doanh nghiệp, tài chính, nhân sự, marketing cho các DNXH.
– Vận động, khuyến khích sự hỗ trợ của các nhà đầu tư xã hội;
– Vận động và tư vấn các chính sách về đấu thầu công khai, cạnh tranh để các DNXH có thể tham gia cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công ích…
Với sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức trung gian này, các DNXH nói chung và DNXH trong DLCĐ nói riêng chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội phát triển.
1.2.4. Xây dựng và phát triển mạng lưới DNXH trong lĩnh vực DLCĐ
Một trong những khó khăn trong quá trình hoạt động của các DNXH là việc thiếu một mạng lưới kết nối. Vì vậy, nhà nước cần có chính sách phát triển mạng lưới DNXH, tạo điều kiện kết nối giữa các DNXH, giữa DNXH và các tổ chức trung gian, các nhà đầu tư xã hội trong và ngoài nước. Với việc xây dựng và phát triển các mạng lưới này, các DNXH sẽ có thêm nhiều điều kiện tham gia các đoàn công tác nước ngoài cấp cao, tham gia hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm, đăng ký danh bạ, thông tin dữ liệu xúc tiến quảng bá thương mại ở nước ngoài. Bằng cách này, các DNXH sẽ có nhiều cơ hội mở rộng quan hệ hợp tác, thúc đẩy hoạt động kinh doanh, tăng cường hiệu quả của những tác động xã hội mà nó hướng tới.
1.3. Giải pháp tạo cơ chế hỗ trợ mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp xã hội
Việc tìm kiếm và phát triển thị trường là một trong những yếu tố sống còn của bất cứ doanh nghiệp nào. Doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển nếu không có một thị trường ổn định và phát triển bền vững.
Trong những năm vừa qua, để hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển hoạt động kinh doanh, nhà nước đã tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường. Trong đó có chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Mục tiêu chính của chương trình này là nhằm tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước, thương mại miền núi, biên giới và hải đảo; góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam; gắn kết các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch. Tuy nhiên, cơ hội cho các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tham gia vào các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia hầu như chưa có.
Bên cạnh đó, với năng lực quản lý cùng chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ chưa có những chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh một cách bài bản. Vì thế, việc tiếp cận và phát triển thị trường vẫn đang là vấn đề các doanh nghiệp cần sự hỗ trợ và quan tâm từ phía nhà nước cũng như các bên liên quan để có thể đảm bảo một thị trường ổn định và nhiều tiềm năng phát triển.
Vì vậy, để có thể giải quyết vấn đề về thị trường cho các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ, nhà nước có thể cân nhắc các chính sách với những hỗ trợ cụ thể về hoạt động xúc tiến cho các DNXH tại những thị trường giàu tiềm năng về nhu cầu DLCĐ. Những chính sách, quy định này nên được đưa vào nội dung hoạt động của Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Bằng cách đó, các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ sẽ có thêm nhiều cơ hội để giao tiếp với du khách ở thị trường mục tiêu, từ đó sẽ có nhiều hơn những cơ hội mở rộng thị trường cho doanh nghiệp mình.
Cùng với đó, Tổng cục Du lịch Việt Nam cùng các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch các cấp có thể cân nhắc những chính sách tham gia các Hội chợ du lịch quốc tế tại cả thị trường trong và ngoài nước để các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ có cơ hội được mở rộng và củng cố thêm mối quan hệ hợp tác với các đối tác chiến lược; tăng cường các cơ hội giao lưu, học hỏi những kinh nghiệm quản lý, tổ chức các hoạt động DLCĐ và có thể thông qua đây, tìm kiếm được những cá nhân/ tổ chức tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Với hoạt động này, cùng với việc thông qua các câu chuyện về việc thực hiện các mục tiêu xã hội, các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ sẽ ngày càng có thể mở rộng sự nhận diện của doanh nghiệp mình trên thị trường, từ đó giúp gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi việc xúc tiến thị trường cho các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ nhận được sự quan tâm và hỗ trợ từ các cấp một cách thống nhất thì hiệu quả mang lại sẽ cao hơn, các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị trường, phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
Có thể nói, với những chính sách hỗ trợ và thúc đẩy DNXH nói chung sẽ tạo tiền đề cho các DNXH trong những lĩnh vực khác nhau, trong đó có DLCĐ, có cơ hội được phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, với phong trào xã hội đang rất mạnh mẽ và nguồn lực Doanh nhân xã hội đang rất dồi dào, chỉ cần những chính sách của nhà nước có hiệu quả hơn nữa sẽ mang lại những tác động rất lớn cho xã hội, cộng đồng.
2. Nhóm giải pháp phát triển doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng theo chiều sâu
Mục tiêu của nhóm giải pháp này là:
Đảm bảo chất lượng dịch vụ là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự hài lòng của du khách đối với các sản phẩm, dịch vụ DLCĐ. Vì thế, để phát triển các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ, việc đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp cho du khách là một yêu cầu quan trọng đối với các doanh nghiệp trong quá trình vận hành. Trong khi đó, du lịch là một ngành dịch vụ. Dịch vụ chỉ được hình thành khi có sự tham gia của yếu tố con người trong quá trình tiêu dùng. Vì thế, bên cạnh các yếu tố phần cứng như cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, công nghệ…, các yếu tố phần mềm bao gồm yếu tố con người cùng các nét văn hóa truyền thống bản địa cũng có vai trò quan trọng trong việc quyết định sự hài lòng của du khách trong quá trình tham gia vào các hoạt động DLCĐ tại địa phương.
Vì thế, để nâng cao mức độ hài lòng của du khách, từ đó phát triển hiệu quả hoạt động kinh doanh theo chiều sâu, cần thiết phải nâng cao chất lượng cả các yếu tố phần cứng và phần mềm. Trong đó, nâng cao chất lượng các yếu tố phần cứng đòi hỏi sự quan tâm của nhà nước với những chính sách hỗ trợ phát triển cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ DLCĐ. Còn chất lượng các yếu tố phần mềm sẽ được củng cố với những giải pháp phát triển năng lực cho nguồn nhân lực phục vụ DLCĐ, đây cũng chính là đối tượng mà các DNXH hướng đến phân phối lợi ích từ hoạt động kinh doanh của mình.
Do đó, nhóm giải pháp phát triển các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tại Việt Nam theo chiều sâu sẽ tập trung vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ DLCĐ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực DLCĐ trong các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ.
2.1. Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch cộng đồng
Các dịch vụ cơ bản cấu thành nên sản phẩm DLCĐ cung cấp cho du khách bao gồm các dịch vụ chủ yếu sau:
– Dịch vụ lưu trú;
– Dịch vụ ăn uống;
– Dịch vụ vận chuyển;
– Dịch vụ tham quan;
– Dịch vụ trải nghiệm cuộc sống bản địa.
Trong số các dịch vụ này, dịch vụ về lưu trú, ăn uống là nhóm dịch vụ đáp ứng nhu cầu cơ bản của du khách, đó là nhu cầu ăn và nghỉ. Chính vì thế, trong quá trình trải nghiệm DLCĐ, bên cạnh việc trải nghiệm những yếu tố bản địa, dịch vụ lưu trú và ăn uống phải đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh, an toàn. Bên cạnh đó, dịch vụ vận chuyển là dịch vụ nền tảng để khách du lịch tiếp cận với điểm đến; còn dịch vụ tham quan trải nghiệm cuộc sống bản địa là những dịch vụ giúp đảm bảo tính đặc trưng của DLCĐ. Do đó, để đảm bảo các dịch vụ lưu trú và ăn uống cho du khách đạt những tiêu chuẩn về vệ sinh, an toàn theo đúng quy định, các dịch vụ khác đảm bảo yêu cầu, cần có những quy định và chế tài xử phạt cụ thể nếu các cơ sở kinh doanh vi phạm.
Như vậy, để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu và gia tăng mức độ hài lòng của khách DLCĐ, việc nâng cao chất lượng của các dịch vụ du lịch là một yêu cầu cấp thiết để phát triển các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ. Vì vậy, bên cạnh sự nỗ lực từ chính cộng đồng địa phương tại điểm đến DLCĐ, rất cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước trong việc khuyến khích, hỗ trợ cho các DNXH, cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển để nâng cao khả năng phục vụ du khách của họ. Nội dung các chương trình hỗ trợ xoay quanh các chương trình hỗ trợ tài chính đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ DLCĐ, các kỹ thuật vận hành và quản lý các dịch vụ DLCĐ cho cộng đồng địa phương.
Để triển khai các nội dung này, nhà nước có thể xem xét các phương án sau:
– Lập kế hoạch và triển khai các chương trình hỗ trợ kỹ thuật về xây dựng, vận hành và quản lý các dịch vụ DLCĐ bao gồm dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận chuyển. Nội dung các chương trình hỗ trợ kỹ thuật liên quan đến các hoạt động nghiên cứu chính sách, thể chế, chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực của cộng đồng địa phương hoặc để chuẩn bị thực hiện chương trình, dự án phát triển DLCĐ thông qua một số hoạt động như cung cấp chuyên gia trong nước và quốc tế, đào tạo, hỗ trợ một số trang thiết bị, tư liệu và tài liệu, tham quan khảo sát, hội thảo trong và ngoài nước nhằm mục tiêu phát triển chất lượng dịch vụ DLCĐ tại điểm đến du lịch.
– Khuyến khích các ngân hàng thương mại xây dựng các gói hỗ trợ tài chính, các chương trình tiếp cận vốn vay cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận chuyển phục vụ hoạt động du lịch cộng đồng. Các gói hỗ trợ tài chính sẽ được triển khai với mức lãi suất vay ưu đãi tùy theo đối tượng căn cứ trên một số tiêu chí nhất định.
– Xây dựng các chương trình đào tạo, tập huấn nâng cao kỹ thuật phục vụ khách DLCĐ cho các cơ sở lưu trú, ăn uống, vận chuyển, hướng dẫn du lịch tại địa phương. Đối tượng của các chương trình đào tạo, tập huấn chủ yếu là người dân cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động phục vụ khách DLCĐ. Nội dung các chương trình này bao gồm hai nội dung chính:
+ Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động DLCĐ đối với cuộc sống của cộng đồng địa phương.
Thông thường, những khóa đào tạo nâng cao nhận thức về DLCĐ sẽ được triển khai vào thời điểm ngay trước khi bắt đầu thực hiện các chương trình phát triển DLCĐ trực tiếp tại cộng đồng bởi DLCĐ là loại hình du lịch dựa trên sự tham gia của cộng đồng địa phương nên hoạt động DLCĐ không thể thành công nếu cộng đồng địa phương không tham gia vào hoạt động du lịch. Mà cộng đồng địa phương chỉ tham gia khi đã hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của DLCĐ đối với cuộc sống hàng ngày của chính họ và gia đình. Vì thế, một trong những điều kiện tiên quyết để triển khai hoạt động DLCĐ đó là phải nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương về DLCĐ. Tuy nhiên, việc nâng cao nhận thức về DLCĐ không chỉ được thực hiện trước khi triển khai các hoạt động DLCĐ mà còn được liên tục tổ chức trong quá trình thực hiện các hoạt động DLCĐ để đảm bảo rằng cộng đồng địa phương hiểu rõ những nguyên tắc phát triển DLCĐ, từ đó mang lại những tác động tích cực hướng tới sự phát triển du lịch một cách bền vững.
+ Nâng cao kỹ năng phục vụ du lịch tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, bán hàng lưu niệm, dịch vụ hướng dẫn du lịch.
Có thể thấy, để mang lại sự hài lòng cho khách khi tham gia vào các hoạt động DLCĐ tại địa phương thì cần phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định về việc cung cấp các dịch vụ cho du khách. Vì thế, triển khai các khóa tập huấn nhằm nâng cao kỹ năng phục vụ du lịch cho các cơ sở kinh doanh với những tiêu chuẩn cụ thể cần đáp ứng sẽ giúp cộng đồng hiểu được các tiêu chuẩn cần hướng tới trong quá trình phục vụ du khách để từ đó thay đổi hành vi theo hướng tích cực và nâng cao kỹ năng phục vụ du khách.
Những khóa đào tạo, tập huấn nâng cao kỹ năng phục vụ du lịch này nên được tổ chức thường xuyên với những chủ đề riêng biệt nhất định. Trong thời gian đầu phát triển DLCĐ thì các khóa đào tạo, tập huấn nên được giảng dạy bởi các chuyên gia hoặc giảng viên có chuyên môn về du lịch và chính người dân địa phương tham gia vào các khóa đào tạo, tập huấn đầu tiên này sau này sẽ có thể trở thành các đào tạo viên đào tạo lại cho các cơ sở kinh doanh khác tại địa phương trong các giai đoạn sau. Như vậy, hoạt động DLCĐ sẽ hướng tới sự tự làm chủ của cộng đồng địa phương trong việc quản lý và triển khai các hoạt động DLCĐ.
Với những giải pháp trên, chất lượng dịch vụ của các hoạt động DLCĐ chắc chắn sẽ được cải thiện đáng kể, góp phần nâng cao mức độ hài lòng của du khách trong quá trình trải nghiệm DLCĐ tại điểm đến du lịch.
2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng
Mức độ thành công của các DNXH phụ thuộc rất nhiều vào tầm nhìn và năng lực quản lý của người đứng đầu doanh nghiệp, đó là các Doanh nhân xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hầu hết Doanh nhân xã hội trong lĩnh vực DLCĐ mặc dù đều có tinh thần xã hội nhưng trình độ chuyên môn không cao. Trong khi đó, để điều hành và lãnh đạo một doanh nghiệp, chỉ trình độ chuyên môn thôi chưa đủ, kỹ năng quản lý mới là một trong những yếu tố quan trọng quyết định tới sự thành công trong quá trình vận hành doanh nghiệp. Vậy mà, các Doanh nhân xã hội trong lĩnh vực DLCĐ chủ yếu là những con người có tinh thần và mong muốn cống hiến cho sự phát triển xã hội, còn trình độ chuyên môn về du lịch và các kỹ năng quản lý doanh nghiệp là rất thấp. Vì vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm việc trong các DNXH có hoạt động DLCĐ, điều tiên quyết là phải nâng cao được trình độ và kỹ năng quản lý doanh nghiệp cho các Doanh nhân xã hội.
Một trong những giải pháp cho vấn đề này đó là thành lập các khoa/ bộ môn chuyên ngành về quản trị DNXH tại các cơ sở đào tạo hoặc các khoa/ bộ môn chuyên ngành về DNXH trong DLCĐ tại các cơ sở đào tạo về du lịch. Trong đó, việc thành lập các chương trình đào tạo chuyên biệt nghiên cứu về DNXH và sáng tạo xã hội sẽ tạo tiền đề xây dựng và cung ứng các thế hệ Doanh nhân xã hội có chất lượng cao, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNXH trên thị trường. Nội dung của các chương trình này ngoài việc cung cấp các bài giảng, kiến thức về DNXH để gia tăng nhận thức, kỹ năng và thái độ của sinh viên/ học viên về DNXH thì còn tổ chức các khóa huấn luyện về kiến thức, kỹ năng thực hành trong tổ chức và quản lý DNXH cũng như cung cấp những hiểu biết về luật pháp, cơ chế, chính sách áp dụng đối với DNXH để sinh viên khi khởi sự DNXH có thể vận hành doanh nghiệp đúng định hướng chính sách.
Bên cạnh đó, các kiến thức chuyên biệt về DLCĐ cũng nên được đưa vào chương trình đào tạo tại các cơ sở đào tạo về du lịch để học viên có thể nắm rõ được gốc rễ các vấn đề có liên quan đến DLCĐ. Ngoài ra, những kiến thức về DNXH trong lĩnh vực DLCĐ cũng nên được xem xét để định hướng cho người học về tầm quan trọng của việc phát triển loại hình doanh nghiệp này đối với nền kinh tế – xã hội và môi trường, góp phần phát triển du lịch bền vững.
Như vậy, khi các cơ sở đào tạo đóng vai trò “vườn ươm” thì bên cạnh chất lượng Doanh nhân xã hội đáp ứng nhu cầu thực tế sẽ được củng cố và nâng cao hơn thì chất lượng nguồn nhân lực phục vụ DLCĐ cũng được nâng cao. Điều này sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng hoạt động của các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ đặc biệt về chiều sâu.
Trên đây là một số giải pháp phát triển DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tại Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. Để các giải pháp này mang lại hiệu quả rất cần sự phối hợp của các bên liên quan, trong đó vai trò tiên quyết vẫn là ở phía nhà nước trong việc thiết lập những chính sách khuyến khích, ưu đãi cụ thể về loại hình doanh nghiệp này.
Tham khảo thêm
Vũ Hương Giang (2019). Nghiên cứu phát triển doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế. Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương. Hà Nội.