1. Khách du lịch

1.1. Đặc điểm khách tham gia Du lịch cộng đồng

1.1.1. Cơ cấu khách tham gia Du lịch cộng đồng

Theo số liệu thống kê của luận án về cơ cấu khách Du lịch cộng đồng phân loại theo độ tuổi thì khách Du lịch cộng đồng ở độ tuổi thanh niên từ 18 đến dưới 40 tuổi chiếm tỷ lệ nhiều nhất (64.3%) . Lý do là bởi đây là loại hình du lịch dựa trên việc khai thác cơ sở vật chất và các giá trị văn hóa sẵn có, không tốn nhiều chi phí và công sức đầu tư, khiến giá thành các dịch vụ khá rẻ, phù hợp với khách ở độ tuổi thanh niên, chưa có nhiều tích lũy về tài chính.

Biều đồ Cơ cấu khách du lịch cộng đồng theo độ tuổi tại Việt Nam (Nguồn: Số liệu khảo sát và tính toán của tác giả)

Bên cạnh đó, nếu xét về cơ cấu khách du lịch theo lĩnh vực nghề nghiệp thì có thể thấy, khách Du lịch cộng đồng ở Việt Nam thường là những người làm việc trong các lĩnh vực khác nhau nhưng hầu hết là những người có tri thức, có hiểu biết với số lượng khách du lịch làm việc trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu cao nhất (23.7%). Chính vì thế mà theo nhận định của Trung tâm Du lịch có trách nhiệm (CREST) và các chuyên gia du lịch khác, đặc điểm quan trọng nhất của du khách Du lịch cộng đồng tại Việt Nam là: Tôn trọng các giá trị tự nhiên, lịch sử và văn hóa và các điểm tham quan; quan tâm đến các tác động của du lịch đối với môi trường và giá trị bền vững; tìm kiếm những khía cạnh chân thực của cuộc sống, các yếu tố mang đậm tính truyền thống đại phương; tìm kiếm sự tương tác với con người, lối sống và các nền văn hóa riêng khác nhau của chính họ.

Biều đồ Cơ cấu khách du lịch cộng đồng theo lĩnh vực nghề nghiệp tại Việt Nam (Nguồn: Số liệu khảo sát và tính toán của tác giả)

1.1.2. Hành vi tiêu dùng du lịch

Theo số liệu khảo sát, một số lượng lớn khách tham gia Du lịch cộng đồng từ lần thứ 2 trở lên. Trong đó, 37.9% khách du lịch đã 2 lần tham gia hoạt động Du lịch cộng đồng, 9.9% khách du lịch đã từng tham gia từ 03 đến 05 lần, còn lại 52.2% khách du lịch tham gia Du lịch cộng đồng lần đầu tiên. Số liệu này cho thấy, một số lượng không nhỏ khách du lịch tiếp tục tham gia vào các chương trình Du lịch cộng đồng sau khi đã trải nghiệm lần đầu tiên. Điều này chứng tỏ rằng, với chất liệu xây dựng sản phẩm du lịch độc đáo từ chính những giá trị thường ngày của cộng đồng bản địa, Du lịch cộng đồng đã tạo nên sức một hấp dẫn lớn với du khách để có thể thu hút họ tiếp tục tham gia trải nghiệm loại hình này.

Cũng theo số liệu thống kê của bài viết, du khách thường đi du lịch thông qua ba hình thức chủ yếu: tự tổ chức, mua chương trình du lịch trọn gói từ công ty du lịch và mua tour free & easy của các công ty du lịch. Trong đó, hình thức tự tổ chức chuyến đi cho riêng mình chiếm số lượng lớn nhất (41.7%).

Biều đồ Phương thức tham gia du lịch cộng đồng của khách du lịch cộng đồng tại Việt Nam (Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả)

1.2. Nhu cầu của du khách về tham gia Du lịch cộng đồng tại Việt Nam

Một khảo sát của AC Nielson do SNV ủy thác (2010) đối với hơn 200 khách du lịch nội địa và 200 khách du lịch quốc tế ở các vùng trọng điểm du lịch lớn của Việt Nam đã đưa ra một số phát hiện cơ bản về Du lịch cộng đồng ở Việt Nam, trong đó nhu cầu chính của khách Du lịch cộng đồng là muốn trải nghiệm các giá trị tự nhiên và văn hóa của địa phương (65%), đồng thời gần như hầu hết (97%) khách du lịch đều sẵn sang chi trả nhiều hơn cho những chuyến đi thân thiện với môi trường và mang lại nhiều lợi ích cho người nghèo.

Cũng bởi từ nhu cầu trên nên số liệu khảo sát của bài viết đã chỉ ra rằng, khách Du lịch cộng đồng tại Việt Nam thường bị thu hút bởi những yếu tố đặc trưng của điểm đến Du lịch cộng đồng như: khung cảnh thiên nhiên, khí hậu, tài nguyên sinh vật, truyền thống văn hóa dân tộc bản địa, đặc sản và lối sống của cộng đồng địa phương. Trong đó, những yếu tố thuộc về văn hóa bản địa và khung cảnh thiên nhiên được đánh giá có mức độ hấp dẫn khách du lịch cao nhất.

Biều đồ Các yếu tố hấp dẫn khách du lịch cộng đồng tại Việt Nam (Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả)

2. Các hình thức tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động Du lịch cộng đồng

Hiện nay, tại Việt Nam, có 03 mô hình tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động Du lịch cộng đồng như sau:

i) Mô hình thứ nhất là cả cộng đồng cùng tham gia vào Du lịch cộng đồng;

ii) Mô hình thứ hai chỉ gồm một bộ phận cộng đồng hoặc hộ gia đình tham gia vào Du lịch cộng đồng;

iii) Mô hình thứ ba là mô hình liên doanh giữa cộng đồng hoặc một số thành viên cộng đồng và đối tác kinh doanh. Mức độ tham gia trong một dự án Du lịch cộng đồng của cộng đồng có thể khác nhau tùy theo từng nơi.

Tuy nhiên, tại hầu hết các điểm Du lịch cộng đồng hiện nay, người dân địa phương chủ yếu tham gia vào hoạt động Du lịch cộng đồng theo mô hình thứ hai và mô hình thứ ba, tức là chỉ một bộ phận cộng đồng hoặc hộ gia đình tham gia vào Du lịch cộng đồng hoặc theo mô hình liên doanh giữa cộng đồng hoặc một số thành viên cộng đồng và đối tác kinh doanh. Trong đó, nếu Du lịch cộng đồng được triển khai theo mô hình một bộ phận cộng đồng/ hộ gia đình tham gia vào Du lịch cộng đồng thì hoạt động cung cấp dịch vụ du lịch thường diễn ra theo hướng tự phát, hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường không cao. Còn nếu hoạt động Du lịch cộng đồng được triển khai theo mô hình liên doanh giữa cộng đồng hoặc một số thành viên cộng đồng với đối tác kinh doanh thì do những điều khoản cam kết với các đối tác nên thường hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch sẽ cao hơn, các dịch vụ được cung cấp chuyên nghiệp hơn.

Ngoài ra, hình thức tham gia của cộng đồng vào hoạt động Du lịch cộng đồng thường dưới các dạng sau đây:

– Cá nhân sản xuất và bán hàng địa phương (hoa quả, hàng thủ công …) cho du khách trực tiếp hoặc thông qua các doanh nghiệp du lịch.

– Một số cá nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh du lịch một cách không chính thức (doanh nghiệp vận hành và quản lý bởi cá nhân địa phương), thường các cá nhân này thiếu kỹ năng và kiến thức du lịch nên việc thành công cũng còn hạn chế.

– Doanh nghiệp du lịch tư nhân (thường ở bên ngoài cộng đồng – Doanh nghiệp tư nhân bên ngoài) được phép cung cấp các dịch vụ cho khách du lịch tại điểm Du lịch cộng đồng và sau đó chia sẻ lại lợi nhuận cho cộng đồng trên cơ sở thỏa thuận.

– Các doanh nghiệp do cộng đồng cùng sở hữu và điều hành (doanh nghiệp cộng đồng): Mô hình này đôi khi có thể thiếu tính chuyên nghiệp trong việc tổ chức hoạt động, nhưng điều này có thể được khắc phục theo thời gian.

– Liên doanh giữa cộng đồng và doanh nghiệp tư nhân: Bao gồm chia quyền sở hữu, hoặc các thỏa thuận hợp đồng chặt chẽ liên quan đến dịch vụ ăn ở cho khách hoặc các hoạt động du lịch khác.

Trên đây là một số mô hình và hình thức tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động Du lịch cộng đồng phổ biến tại các điểm Du lịch cộng đồng ở Việt Nam hiện nay.

3. Nhân lực phục vụ du lịch cộng đồng

Đối với Du lịch cộng đồng, người dân địa phương tại điểm đến du lịch chính là nhân tố tham gia trực tiếp vào các chương trình và hoạt động Du lịch cộng đồng tại địa phương. Họ là một thành tố cấu thành sản phẩm Du lịch cộng đồng. Tuy nhiên, ngoài việc mang lại cho du khách những trải

nghiệm về văn hóa, lối sống và truyền thống của cộng đồng dân tộc mình, dân cư địa phương còn là những người cung cấp dịch vụ du lịch cho du khách trong quá trình tham quan tại điểm đến du lịch ở những mức độ khác nhau.

Như đã phân tích ở trên, có một số lựa chọn để cộng đồng địa phương tham gia vào hoạt động Du lịch cộng đồng tại địa phương mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù trong những năm gần đây, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ Du lịch cộng đồng luôn được quan tâm, chú trọng nhưng sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch chưa thực sự chuyên nghiệp, chưa được du khách đánh giá cao và vẫn còn một khoảng cách xa so với đội ngũ lao động trong các lĩnh vực du lịch khác.

Chất lượng nguồn nhân lực phục vụ Du lịch cộng đồng được đánh giá dựa trên tiêu chí về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ:

– Trình độ văn hóa: Theo thống kê của Tổng cục Du lịch năm 2015, hiện có khoảng 80% nhân lực phục vụ Du lịch cộng đồng là người dân địa phương tại chính cộng đồng ấy. Trong khi địa phương có điểm đến Du lịch cộng đồng ở Việt Nam thường tập trung ở những nơi có khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nơi có truyền thống văn hóa đặc sắc, độc đáo của các dân tộc địa phương… Tuy nhiên, những nơi này thường là những vùng hẻo lánh, cách xa trung tâm thành phố, cuộc sống của người dân còn nhiều khó khăn, chất lượng cuộc sống rất thấp. Chưa đến 20% trong số đó tốt nghiệp THPT.

Vì thế, trình độ văn hóa của những người dân địa phương tham gia vào phục vụ Du lịch cộng đồng nhìn chung rất thấp. Họ thường tham gia vào hoạt động Du lịch cộng đồng với những vị trí lao động khác nhau, chủ yếu là lao động trực tiếp như: hướng dẫn du lịch, cung cấp các sản vật địa phương, cung cấp dịch vụ lưu trú (homestay), cung cấp những trải nghiệm về cuộc sống và truyền thống địa phương (biểu diễn văn nghệ cộng đồng, trình diễn các kỹ thuật làm nghề thủ công…). Có thể nói, trình độ văn hóa thấp của nguồn nhân lực phục vụ Du lịch cộng đồng là một trong những thách thức đối với việc phát triển Du lịch cộng đồng tại Việt Nam.

Biều đồ Cơ cấu nguồn nhân lực du lịch cộng đồng tại Việt Nam 2015 (Nguồn: Tổng cục du lịch)

Biều đồ Trình độ nguồn nhân lực du lịch cộng đồng tại Việt Nam 2015 (Nguồn: Tổng cục du lịch)

– Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Tỷ lệ lao động có chuyên môn, nghiệp vụ về du lịch còn rất thấp, chỉ chiếm khoảng 15% tổng số lao động Du lịch cộng đồng. Còn phần lớn số lao động còn lại là từ các ngành nghề khác chuyển sang hoặc lao động chưa qua đào tạo, bồi dưỡng. Qua số liệu trên có thể thấy rằng phần lớn số lao động trong Du lịch cộng đồng là không có chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ, tay nghề của một bộ phận lớn lực lượng lao động trực tiếp còn hạn chế, phục vụ du lịch còn theo thói quen, theo kinh nghiệm và chủ yếu theo bản năng tự nhiên. Đội ngũ hướng dẫn viên địa phương không chỉ yếu về trình độ ngoại ngữ, không tinh thông về nghiệp vụ mà còn thiếu những hiểu biết về truyền thống văn hoá, lịch sử cũng như những giá trị của các danh lam thắng cảnh, tính chuyên nghiệp chưa cao, và đôi khi có thái độ không tích cực đối với du khách.

– Trình độ ngoại ngữ: Theo ước tính của Tổng cục Du lịch, hiện nay, hơn 3/4 lao động làm việc trong du lịch không biết ngoại ngữ, đây là một hạn chế rất lớn của Du lịch cộng đồng Việt Nam bởi trình độ ngoại ngữ có thể nói là công cụ tối cần thiết để người làm du lịch tiếp cận với du khách quốc tế.

Như vậy có thể thấy rằng, chất lượng nguồn nhân lực Du lịch cộng đồng Việt Nam hiện nay cũng đang là một vấn đề đáng phải quan tâm. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta cần phải có một chiến lược để phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam nói chung và những chính sách, chiến lược đặc thù phát triển nguồn nhân lực Du lịch cộng đồng, không chỉ đáp ứng nhu cầu về mặt số lượng mà phải đảm bảo chất lượng, với một cơ cấu hợp lý.

4. Cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch cộng đồng

4.1. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch

Cơ sở hạ tầng phục vụ khách Du lịch cộng đồng tại Việt Nam được khách du lịch đánh giá ở mức trung bình. Trong số những tiêu chí được đánh giá, chất lượng bên tàu nhà/ ga và hệ thống thông tin liên lạc được đánh giá cao nhất với 25.8% du khách “rất hài lòng” với hệ thống thông tin liên lạc, 25.8% du khách “hài lòng” với hệ thống bến tàu, nhà ga. Điều này thể hiện chiến lược phát triển du lịch tổng thể của Việt Nam trong thời gian qua, trong đó xác định tập trung vào phát triển loại hình Du lịch cộng đồng với những chiến lược và chương trình hành động cụ thể, đã mang lại những hiệu quả nhất định.

Biểu đồ Mức độ hài lòng của khách du lịch cộng đồng về cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch ở các điểm du lịch cộng đồng tại Việt Nam (Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả)

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập trong hệ thống nhà vệ sinh công cộng phục vụ du khách. Có đến 39% du khách “rất không hài lòng”, 40.1% “không hài lòng” và chỉ có 20.3% du khách “hài lòng” với chất lượng nhà vệ sinh công cộng. Đây là một trong những yếu điểm, cần có giải pháp khắc phục để mang lại cho du khách những trải nghiệm tốt hơn.

4.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ lưu trú

Nói đến cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch thì không thể không nói đến cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ lưu trú bởi nó là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng và giá trị của điểm đến du lịch. Nhìn chung, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ lưu trú dành cho khách Du lịch cộng đồng tại Việt Nam có hai dạng: nhà nghỉ homestay và nhà nghỉ/ khách sạn kinh doanh dịch vụ lưu trú.

* Nhà nghỉ homestay (du khách nghỉ tại nhà dân)

Biểu đồ Mức độ hài lòng của khách du lịch cộng đồng về dịch vụ homestay ở các điểm du lịch cộng đồng tại Việt Nam (Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả)

Nhà nghỉ homestay là hình thức du khách lưu trú tại nhà người dân trong công đồng tại điểm đến du lịch. Hình thức kinh doanh lưu trú homestay tạo công ăn việc làm cho nhiều gia đình ở điểm Du lịch cộng đồng mà không đòi hỏi đầu tư nhiều; tạo cơ hội thu nhập cho người dân tộc thiểu số vì du khách rất tò mò với nền văn hóa đa dạng nhiều màu sắc của từng địa phương; tạo ra giá trị đối với việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa (và tự nhiên) do du khách háo hức muốn có trải nghiệm chân thực, bao gồm ẩm thực, nghệ thuật, quà tặng… Với đặc trưng văn hóa vùng miền đặc sắc, các địa phương đều có nhiều tiềm năng phát triển loại hình cơ sở lưu trú này. Hiện tại, homestay rất phổ biến tại các khu vực miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên, Huế, Hội An và miền Tây Nam Bộ.

Tuy nhiên, theo ý kiến đánh giá của các chuyên gia trong quá trình phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia thì hiện tại hình thức kinh doanh dịch vụ lưu trú homestay ở nước ta đang phát triển tự phát, cần phải được định hình và chấn chỉnh nghiêm túc.

Cũng theo ý kiến của các chuyên gia đến từ Dự án Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội do Liên minh châu Âu tài trợ (Dự án EU) thì: Sự phát triển quá nhanh của dịch vụ này khiến homestay đang mất dần nét đặc sắc của riêng nó. Thương mại hóa mạnh mẽ các giá trị văn hóa đang làm thay đổi tính chất cơ bản của homestay ở Việt Nam là ăn, ở và sống cùng với người dân bản xứ.

Giống như nhiều sản phẩm Du lịch cộng đồng, homestay ở Việt Nam thường không được xây dựng với phương pháp tiếp cận dựa vào thị trường. Tức là không xây dựng sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của một số thị trường nhất định, cũng như nhu cầu của du khách và các đơn vị điều hành chương trình du lịch. Yếu tố về cung cũng không được cân nhắc đầy đủ. Ví dụ các ngôi làng ban đầu có một vài ngôi nhà phục vụ homestay tiềm năng rồi đột nhiên phát triển quá mức gây nên tình trạng cung lớn hơn cầu, ảnh hưởng lớn tới đời sống cũng như hoạt động du lịch tại địa phương.

Bên cạnh đó, các hạn chế khác như người điều hành homestay không được đào tạo bài bản về loại hình này, du khách muốn có trải nghiệm về văn hóa tức là có sự trao đổi giao tiếp nhưng các thành viên trong gia đình có vốn tiếng Anh hạn chế, dẫn đến mức độ giao lưu văn hóa chỉ dừng lại ở những gì hướng dẫn viên nói hay những gì khách chứng kiến…cũng là một vấn đề cần quan tâm trong việc đầu tư, vận hành và quản lý các cơ sở lưu trú tại gia homestay.

Đây cũng là những lý do chính khiến mức độ đánh giá của khách Du lịch cộng đồng về dịch vụ homestay ở Việt Nam chỉ ở mức trung bình. Theo kết quả khảo sát, vệ sinh là vấn đề du khách không hài lòng nhất về các nhà nghỉ homestay tại Việt Nam. Trong đó, có đến 45.1% du khách được hỏi đều “không hài lòng” và 18.1% du khách được hỏi cảm thấy “rất không hài lòng” về vấn đề này. Thực tế cho thấy, vấn đề vệ sinh vẫn chưa được chủ các nhà nghỉ homestay quan tâm, nhất là ở khu vực vệ sinh dành cho khách. Mặc dù hầu hết các nhà nghỉ homestay đều có quy hoạch khu vệ sinh dành riêng cho khách du lịch nhưng việc dọn dẹp đảm bảo tiêu chuẩn đón khách thì không phải nhà nghỉ nào cũng thực hiện được. Nhất là khi đón những đoàn số lượng lớn thì việc đảm bảo vệ sinh càng khó kiểm soát.

Bên cạnh những tiêu chí đánh giá trên đây thì những tiêu chí như không gian nhà nghỉ, mức độ an toàn, giá cả dịch vụ và mức độ chuyên nghiệp của nhân viên phục vụ hầu hết đều được đánh giá ở mức trung bình (hài lòng).

* Nhà nghỉ/ Khách sạn kinh doanh dịch vụ lưu trú

Loại hình cơ sở lưu trú này được thiết kế không gian chỉ dành riêng phục vụ du khách đến với điểm Du lịch cộng đồng. Vì thế, nó vận hành như các cơ sở lưu trú thông thường tại các điểm du lịch khác. Tuy nhiên, vì ở vùng Du lịch cộng đồng nên loại hình lưu trú này cũng có những đặc điểm riêng về số lượng cũng như chất lượng dịch vụ.

– Về số lượng: Số lượng các nhà nghỉ/ khách sạn phục vụ khách Du lịch cộng đồng nhìn chung không nhiều. Phục vụ chủ yếu đối tượng khách du lịch muốn trải nghiệm không khí, cuộc sống của người dân địa phương ở một mức độ giới hạn, không muốn hòa quyện hết mình vào cuộc sống của cộng đồng địa phương.

– Về chất lượng: Tùy từng điểm đến Du lịch cộng đồng mà chất lượng cơ sở lưu trú có những điểm khác nhau. Nhìn chung, cùng với sự tăng trưởng của khách Du lịch cộng đồng đến với điểm đến, chất lượng của các nhà nghỉ/ khách sạn cũng có những thay đổi tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ những yêu cầu từ phía du khách.

4.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ ăn uống

Dịch vụ ăn uống thường đi kèm với dịch vụ lưu trú. Vì thế, dịch vụ ăn uống tại điểm đến Du lịch cộng đồng cũng có những hình thức khác nhau:

– Dịch vụ ăn uống tại nhà dân;

– Dịch vụ ăn uống trong nhà nghỉ/ khách sạn;

– Dịch vụ ăn uống tại các nhà hàng phục vụ ăn uống.

Tùy theo nhu cầu và mong muốn trải nghiệm của du khách mà họ có thể chọn cho mình những hình thức ăn uống khác nhau. Nhìn chung, dịch vụ ăn uống tại các điểm đến Du lịch cộng đồng chưa thực sự chuyên nghiệp. Mặc dù chất lượng các món ăn truyền thống của cộng đồng rất thu hút du khách nhưng một vấn đề cần quan tâm trong quá trình quản lý Du lịch cộng đồng đó là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới sự đánh giá của du khách về những trải nghiệm của họ tại điểm đến.

Biểu đồ minh họa Mức độ hài lòng của khách du lịch cộng đồng về dịch vụ ăn uống ở các điểm du lịch cộng đồng tại Việt Nam (Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả)

Khảo sát về mức độ hài lòng của du khách đối với dịch vụ ăn uống tại các điểm Du lịch cộng đồng của Việt Nam, kết quả cho thấy, mức độ vệ sinh là điều họ không hài lòng nhất (14% du khách đánh giá mức “rất không hài lòng”, 17% đánh giá mức “không hài lòng”). Sau yếu tố vệ sinh thì yếu tố trang thiết bị của cơ sở cung cấp dịch vụ ăn uống cũng được 12.1% du khách đánh giá ở mức “không hài lòng”. Tỷ lệ này không cao nhưng cũng chỉ ra điểm yếu của các cơ sở cung cấp dịch vụ ăn uống tại các điểm Du lịch cộng đồng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn yếu và thiếu. Có thể nói, ăn uống trong quá trình du lịch là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của du khách trong quá trình tham gia Du lịch cộng đồng. Vì thế, cùng với những nỗ lực phát triển Du lịch cộng đồng cần phải có những chuẩn hóa trong việc cung cấp các dịch vụ ăn uống tại điểm Du lịch cộng đồng để gia tăng hình ảnh điểm đến trong lòng du khách.

4.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vận chuyển

Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vận chuyển tại những điểm Du lịch cộng đồng được đánh giá chưa đa dạng và khá thô sơ. Khảo sát mức độ hài lòng của du khách về chất lượng dịch vụ vận chuyển ở các điểm Du lịch cộng đồng tại Việt Nam đã cho thấy một vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay đó là việc trang bị các thiết bị cứu hộ, cứu nạn trên các phương tiện vận chuyển còn thiếu và yếu. Có đến 20.3% du khách được phỏng vấn đánh giá “rất không hài lòng” và 24.7% du khách đánh giá “không hài lòng” với các trang thiết bị cứu hộ, cứu nạn được trang bị trên các phương tiện vận chuyển ở các điểm Du lịch cộng đồng hiện nay. Ngoài ra, mức độ chuyên nghiệp của nhân viên phục vụ dịch vụ vận chuyển cũng là một yếu tố được du khách đánh giá không cao với 20.9% du khách đánh giá mức độ chuyên nghiệp của nhân viên phục vụ ở mức “không hài lòng”. Còn các yếu tố khác như tốc độ di chuyển, mức độ an toàn hay không gian phương tiện vận chuyển nhìn chung được đánh giá ở mức trung bình.

Khách Du lịch cộng đồng mong muốn được trải nghiệm những gì thuộc về cộng đồng, mang tính truyền thống và độc đáo, khó tìm được ở những nơi nào khác. Vì thế, ngay cả đối với các dịch vụ vận chuyển trong quá trình du lịch, du khách sẽ đánh giá rất cao nếu chương trình du lịch đưa những phương tiện vận chuyển truyền thống của cộng đồng vào như một trải nghiệm du lịch. Chẳng hạn như ở Tây Nguyên, việc cưỡi voi di chuyển trong chuyến tham quan đã được đưa vào các chương trình Du lịch cộng đồng và thực sự tạo được ấn tượng rất tốt với du khách trong quá trình tham quan.

Vì thế, để phát triển các sản phẩm Du lịch cộng đồng, ngoài việc hoàn thiện các trang thiết bị cứu hộ cứu nạn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ dịch vụ vận chuyển Du lịch cộng đồng, có thể nghiên cứu kỹ hơn về việc đưa các phương tiện vận chuyển truyền thống vào các chương trình du lịch phục vụ du khách bởi những phương tiện truyền thống ở một góc độ nào đó có thể được coi là một dạng tài nguyên du lịch có thể được sử dụng để thiết kế các sản phẩm du lịch.

Biểu đồ minh họa Mức độ hài lòng của khách du lịch cộng đồng về dịch vụ vận chuyển ở các điểm du lịch cộng đồng tại Việt Nam 2017 (Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả)

4.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ trung gian, bổ sung

Cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ trung gian, bổ sung tại điểm đến Du lịch cộng đồng là một vấn đề rất cần quan tâm hiện nay. Trên thực tế, các điểm Du lịch cộng đồng tại Việt Nam mới thu hút du khách nhờ những giá trị cốt lõi của mình. Tuy nhiên, để làm nên một chuyến du lịch thành công mang lại cảm nhận và trải nghiệm tích cực cho du khách thì cần phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau đáp ứng được những nhu cầu đa dạng của du khách trong quá trình du lịch. Qua quan sát và điều tra khảo sát đánh giá mức độ hài lòng của du khách về các dịch vụ trung gian, bổ sung tại các điểm Du lịch cộng đồng ở Việt Nam, kết quả đã chỉ ra rằng các dịch vụ này nhìn chung còn rất nghèo nàn và thiếu thốn.

Một số dịch vụ bổ trợ như:

– Quầy bán hàng lưu niệm: không đa dạng về chủng loại, ít về số lượng, nhiều sản phẩm mang tính đại trà, không mang nét đặc trưng riêng biệt của điểm đến.

– Dịch vụ mạng viễn thông, thông tin liên lạc: không thuận tiện, mặc dù sóng điện thoại được phủ hầu khắp cả nước nhưng bưu điện và các hình thức thông tin khác thường không sẵn có và không đáp ứng đủ nhu cầu của du khách tại những điểm đến Du lịch cộng đồng.

Trên đây là một số thực trạng phát triển Du lịch cộng đồng tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011-2017. Bên cạnh sự phát triển về số lượng khách du lịch và chất lượng các hoạt động du lịch, một số vấn đề trong quá trình phát triển Du lịch cộng đồng vẫn còn tồn tại, đòi hỏi những giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng và sự hài lòng của khách Du lịch cộng đồng trong thời gian tới.

Biểu đồ minh họa Mức độ hài lòng của khách du lịch cộng đồng về dịch vụ trung gian, bổ sung ở các điểm du lịch cộng đồng tại Việt Nam (Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả)

Tham khảo thêm

Vũ Hương Giang (2019). Nghiên cứu phát triển doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế. Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương. Hà Nội.

Share.