Trong khuôn khổ bài viết, tác giả lựa chọn 3 quốc gia là Vương Quốc Anh, Hàn Quốc và Thái Lan để tiến hành nghiên cứu về những chính sách mà các quốc gia này đã áp dụng để phát triển Doanh nghiệp xã hội (DNXH) và Du lịch cộng đồng  (DLCĐ). Trong khi Vương Quốc Anh là đất nước có thể coi là khởi nguồn của loại hình DNXH với rất nhiều chính sách thúc đẩy của Chính phủ thì Hàn Quốc là một quốc gia châu Á đã đạt được nhiều thành tựu trong việc giải quyết những vấn đề xã hội thông qua việc phát triển loại hình doanh nghiệp này.

Trong khi đó Thái Lan là một quốc gia Đông Nam Á có các điều kiện phát triển DLCĐ tương tự Việt Nam và đã đạt được nhiều mục tiêu phát triển xã hội thông qua việc triển khai loại hình DNXH trong lĩnh vực DLCĐ.

Việc tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế từ Vương Quốc Anh và Hàn Quốc chủ yếu nhằm rút ra những bài học có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc phát triển chung loại hình DNXH, trong khi đó việc nghiên cứu những kinh nghiệm từ Thái Lan có thể giúp rút ra một số kinh nghiệm trong việc phát triển loại hình DNXH trong DLCĐ.

1. Kinh nghiệm của một số nước lựa chọn

1.1. Vương Quốc Anh

Vương Quốc Anh là quốc gia đầu tiên xuất hiện DNXH cách đây hơn 350 năm. Trong hơn ba thế kỷ qua, rất nhiều mô hình DNXH đã hoạt động và phát triển dưới nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý đa dạng. Việc lựa chọn Vương Quốc Anh để nghiên cứu kinh nghiệm phát triển DNXH là rút ra bài học nhằm hoàn thiện chính sách phát triển DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tại Việt Nam thông qua những chính sách thúc đẩy sự phát triển chung của loại hình DNXH.

Ở Anh, sở dĩ phong trào xã hội phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể là do đã nhận được sự quan tâm từ phía Chính phủ và sự phát triển này luôn có mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống chính sách của Nhà nước thông qua:

– Quan điểm và tầm nhìn của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công: Từ thập niên 80 của thế kỷ XX, khi chính phủ Anh ngày càng thấy rõ những bất cập trong việc nhà nước trực tiếp cung cấp các dịch vụ công thì vai trò của khối kinh tế thứ 3 (phân biệt với khối tư nhân và nhà nước), trong đó có DNXH mới thực sự được thúc đẩy và phát triển mạnh mẽ.

– Chính sách đòn bẩy: Các chính sách cụ thể hỗ trợ và khuyến khích DNXH phát triển, đặc biệt khuyến khích cộng đồng tự chủ, đưa ra các sáng kiến và tự giải quyết các vấn đề của mình. Nhà nước hỗ trợ thông qua đòn bẩy kinh tế, chủ yếu là khuyến khích DNXH tham gia vào chuỗi cung ứng dịch vụ công.

Để tìm hiểu rõ hơn về chính sách phát triển DNXH của Vương quốc Anh, có thể phân tích cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong đó, sự phát triển DNXH ở Anh trong những thập niên gần đây có thể chia thành 2 giai đoạn chính với các chính sách hỗ trợ của nhà nước như sau:

* Từ giữa năm 1990 – 2006: Phát triển DNXH thông qua hỗ trợ và nuôi dưỡng các Doanh nhân xã hội. Mục tiêu phát triển DNXH trong giai đoạn này của Chính phủ Anh là tạo ra nhiều hơn các DNXH và thu hút các đối tượng khác vào trong lĩnh vực này. Vì thế, chính sách phát triển DNXH trong giai đoạn này tập trung hỗ trợ, tạo điều kiện và kích thích động lực hoạt động của các DNXH. Do đó, các chính sách của Nhà nước đối với DNXH tập trung chính vào các chương trình hỗ trợ phát triển.

Ở giai đoạn mới bắt đầu này, DNXH thường do Doanh nhân xã hội thành lập nên. Chính vì vậy, Chính phủ tập trung vào việc hỗ trợ Doanh nhân xã hội. Chiến lược phát triển DNXH trong giai đoạn này đặt ra 3 mục tiêu chính với các chính sách thực hiện như sau:

– Mục tiêu 1: Xây dựng một môi trường thuận lợi

Chiến lược: Củng cố vai trò và sự tham gia chính thức của chính phủ; đảm bảo rằng các qui định luật pháp không làm cản trở sự phát triển DNXH và thúc đẩy sự tham gia của DNXH trong quá trình mua sắm dịch vụ công.

– Mục tiêu 2: Nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNXH.

Chiến lược: Chính phủ cam kết làm việc với các tổ chức nâng cao năng lực để hỗ trợ nâng cao năng lực kinh doanh cho DNXH, đảm bảo nguồn vốn tài chính cho DNXH nhằm hỗ trợ DNXH tự chủ tài chính từ hoạt động kinh doanh.

– Mục tiêu 3: Tạo ra các giá trị cho DNXH

Chiến lược: Nghiên cứu xác định qui mô và ảnh hưởng của DNXH; thừa nhận chính thức và truyền thông rộng rãi những đóng góp của DNXH; xây dựng hệ thống đánh giá để tạo dựng uy tín và niềm tin về những giá trị xã hội và kinh tế mà DNXH mang lại.

* Từ 2007 – nay: Phát huy hiệu quả, quy mô tác động và tính bền vững của DNXH Thông qua hàng loạt chính sách khuyến khích hỗ trợ tạo động lực thúc đẩy phát triển

DNXH, chính phủ Anh đã thành công trong việc thực hiện mục tiêu tạo ra nhiều hơn số lượng các DNXH và đồng thời thu hút các tổ chức có cơ chế hoạt động khác vào trong lĩnh vực mới mẻ này. Đến lúc này, chính sách thu hút nhiều DNXH mới không còn cần ưu tiên nữa. Thay vào đó, chính phủ Anh chuyển trọng tâm chính sách phát triển DNXH sang phát huy hiệu quả, quy mô tác động và tính bền vững của DNXH.

Đây là giai đoạn DNXH được đặt trong một hệ sinh thái lớn hơn với nhiều bên tham gia nhằm tạo một môi trường hoạt động thực sự thuận lợi để các DNXH tạo tác động và hiệu quả bền vững. Để đạt được mục tiêu tăng cường hiệu quả và đảm bảo tính bền vững của DNXH này, Chính phủ Anh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giao lưu, hợp tác giữa các tổ chức và đối tác khác với chủ trương tích cực thúc đẩy hợp tác giữa DNXH với các tổ chức, doanh nghiệp tư nhân và với nhà nước. Và lúc này, Chính phủ lại đóng vai trò quyết định trong việc làm thế nào để tăng cường tác động của DNXH trong giai đoạn mới với các chính sách cụ thể và hiệu quả. Các chính sách này được thể hiện trong 4 định hướng chính sách:

(1)- Hỗ trợ các Doanh nhân xã hội phát triển hoạt động của họ trên qui mô lớn hơn thông qua hỗ trợ phát triển tổ chức và khi có điều kiện thì hỗ trợ họ liên kết, hợp tác, xây dựng mạng lưới và nhân rộng qua mô hình nhượng quyền;

(2)- Khuyến khích văn hóa chia sẻ và trách nhiệm đối với xã hội, đặc biệt thông qua việc hỗ trợ các DNXH và đóng góp cho các hoạt động tình nguyện nhằm hỗ trợ dịch vụ công;

(3)- Chuyển giao dịch vụ công với mục đích thúc đẩy các sáng kiến xã hội và nâng cao hiệu quả;

(4)- Khuyến khích và yêu cầu (khi cần thiết) việc thực hiện CSR.

Như vậy, chính sự hỗ trợ của chính phủ và với nỗ lực từ các tổ chức trung gian, các DNXH và các bên liên quan như trên đã hình thành nên một “hệ sinh thái” cho DNXH phát triển khá toàn diện ở Anh. Đây có thể coi là một mô hình tốt cho Việt Nam trong thời gian tới.

Có thể thấy, dù đã có lịch sử lâu đời nhưng DNXH ở Anh cũng chỉ phát triển mạnh trong gần 20 năm qua với sự hỗ trợ của Nhà nước và sự ra đời của hàng trăm tổ chức trung gian chuyên nghiệp. Nhà nước đóng vai trò vừa là người thúc đẩy, nuôi dưỡng hỗ trợ, vừa là khách hàng lớn của DNXH. Tuy nhiên, do bối cảnh và nền kinh tế – xã hội mỗi quốc gia là khác nhau. Chính vì thế việc áp dụng các mô hình cũng như các chính sách phát triển cần phải được nghiên cứu và cân nhắc kỹ trước khi triển khai và áp dụng tại những địa điểm khác nhau.

1.2. Hàn Quốc

Phong trào DNXH phát triển từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Vì thế, các DNXH ở Hàn Quốc trong giai đoạn này hoạt động và phát triển mạnh mẽ nhằm nỗ lực tìm kiếm các giải pháp về chính sách của Chính phủ với các hoạt động hỗ trợ đồng hành của các tổ chức dân sự xã hội. Sự hỗ trợ, khuyến khích các DNXH của Chính phủ Hàn Quốc được thể hiện trong những nỗ lực cải thiện về chính sách sau:

* Năm 1998: Bắt nguồn là sáng kiến thử nghiệm hợp tác giữa các tổ chức XHDS được ngân sách nhà nước tài trợ thông qua “Ủy ban Quốc gia về khắc phục tình trạng thất nghiệp” để tạo việc làm tạm thời và ổn định thu nhập cho các hộ gia đình nghèo, thất nghiệp.

* Năm 2003: “Chính sách tự hỗ trợ – Self support Policy” được ban hành trong khuôn khổ “Luật quốc gia đảm bảo an ninh sinh kế cơ bản”, đã ảnh hưởng đáng kể đến phong trào thể chế hóa các dự án tạo việc làm của các tổ chức xã hội. Tuy vậy, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ nghèo đói vẫn tương đối cao so với trước khi bị khủng hoảng. Vì các chương trình/ chính sách chỉ tiếp cận được tỷ lệ nhỏ người dân nghèo. Còn đại đa số các hộ thu nhập thấp vẫn chưa được hỗ trợ gì đáng kể.

* Từ năm 2003 đến 2006: Chính phủ quyết định thực hiện “Chương trình tạo việc làm xã hội” (Social Employment Creation Scheme – SECS). Nhờ đó, bên cạnh các tổ chức XHDS trong lĩnh vực phúc lợi xã hội, các mạng lưới/ hiệp hội khác như môi trường, phụ nữ… đều tham gia vào phong trào tạo việc làm, kết hợp với mục tiêu xã hội ban đầu của họ.

* Năm 2007 – nay: “Luật phát triển DNXH” (Social Enterprise Promotion Act) đã ra đời nhằm hỗ trợ các hoạt động kinh doanh có mục đích giải quyết các vấn đề xã hội thông qua việc cung cấp việc làm và các sản phẩm dịch vụ cho các nhóm yếu thế. Họ có thể là doanh nghiệp, tổ chức NGO, hay hiệp hội. Quyền lợi của các DNXH được công nhận là được tiếp cận các gói hỗ trợ tài trợ tài chính của Chính phủ trong quá trình khởi nghiệp; trợ giúp tư vấn về quản lý, miễn thuế, ưu tiên khi đấu thầu các hợp đồng dịch vụ công. Theo đó, các chính sách hỗ trợ phát triển DNXH bao gồm:

Chính sách hỗ trợ kinh doanh: Theo quy định tại Điều 10 Luật phát triển DNXH, Bộ Lao động và Việc làm có trách nhiệm cung cấp, hỗ trợ tư vấn chuyên gia, thông tin… về các lĩnh vực quản lý kinh doanh, công nghệ, thuế, lao động, kế toán… Đồng thời, giao cho các tổ chức được nhà nước cấp ngân sách hoặc các tổ chức tư (được các địa phương quy định) tiến hành hỗ trợ kinh doanh cho các DNXH.

Chính sách htrợ về giáo dục và đào tạo: tại Điều 10-2 Luật phát triển DNXH, Bộ Lao động và Việc làm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng cho lực lượng lao động lành nghề để phục vụ quá trình thành lập và hoạt động của DNXH.

Chính sách hỗ trợ về mặt chi tiêu: Điều 11 Luật phát triển DNXH quy định Nhà nước hoặc chính quyền địa phương cung cấp trợ cấp, các khoản vay khi mua đất, cho thuê đất công và đất quốc gia phục vụ quá trình thành lập và hoạt động của DNXH.

Chính sách hỗ trợ mua ưu đãi từ các tổ chức công: tại Điều 12 Luật phát triển DNXH, lãnh đạo các tổ chức công theo quy định tại Luật xúc tiến DN nhỏ và vừa có thể hỗ trợ mua ưu đãi các hàng hóa, dịch vụ của DNXH.

Chính sách giảm hoặc miễn trừ thuế và hỗ trợ bảo hiểm xã hội: Điều 13 Luật phát triển DNXH quy định Nhà nước hoặc chính quyền địa phương có thể giảm hoặc miễn thuế quốc gia hoặc thuế địa phương theo các điều kiện được quy định tại Luật thuế doanh nghiệp và một số luật thuế khác. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng hỗ trợ bảo hiểm và đền bù tai nạn lao động.

Chính sách hỗ trợ về tài chính cho các DNXH cung cấp các dịch vụ xã hội: theo quy định tại Điều 14 Luật phát triển DNXH, Bộ trưởng Lao động và Việc làm thực hiện cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tài chính như chi phí lao động, phí điều hành, phí tư vấn,…

Ngoài Luật phát triển DNXH, một số chính sách khác cũng được nhà nước Hàn Quốc quy định trong Luật kiểm soát đối xử thuế đặc biệt (The Special Tax Treatment Control Law) nhằm tạo môi trường tốt nhất cho loại hình doanh nghiệp này phát triển, đó là các chính sách miễn giảm thuế. Theo quy định tại khoản 6 Điều 85 Luật kiểm soát đối xử thuế đặc biệt DNXH được cấp giấy chứng nhận hết năm 2013 sẽ được miễn 50% tiền thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc thuế thu nhập cá nhân trong vòng 3 năm kể từ năm DNXH có thu nhập đầu tiên. DNXH phải gửi đơn xin miễn giảm. Trường hợp DNXH không duy trì đủ điều kiện là DNXH theo giấy chứng nhận được cấp được quy định tại Luật phát triển DNXH thì DNXH sẽ không được hưởng miễn giảm thuế nữa.

Theo khoản 4 Điều 22, Luật kiểm soát đối xử thuế đặc biệt, DNXH được miễn giảm thuế địa phương đến hết năm 2013, bao gồm: 1) miễn 50% thuế thu mua đối với bất động sản nếu bất động sản đó được sử dụng hoàn toàn làm nơi làm việc; 2) trường hợp DNXH đăng ký là tập đoàn thì sẽ được miễn 50% thuế đăng ký kinh doanh và giấy phép; và 3) miễn 25% thuế tài sản nếu mua bất động sản dùng hoàn toàn làm nơi làm việc.

Để triển khai hiệu quả các quy định trên, đòi hỏi có sự thống nhất giữa các cấp từ Trung ương đến địa phương. Tại cấp Trung ương, Nhà nước thực thi các chính sách hỗ trợ cho DNXH nhằm mở rộng các dịch vụ xã hội và tạo việc làm, đồng thời, tại cấp địa phương, chính quyền cũng tự xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ DNXH để đảm bảo phù hợp với đặc điểm của địa phương. Hiện nay, DNXH tại Hàn Quốc đang nhận được sự hỗ trợ tích cực từ hai cấp sau:

+ Tại cấp Trung ương, DNXH được giảm hoặc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu. Trong năm 2012, trường hợp nếu không nhận hỗ trợ tài chính của Chính phủ, thì hàng tháng DNXH sẽ được nhận khoản trợ cấp lên tới 85.000 won trong vòng 4 năm để chi trả phí bảo hiểm xã hội mà DNXH đã trả cho người lao động. Tiếp đó, Cơ quan bảo hộ thị trường hàng hoá và dịch vụ của DNXH sẽ triển khai việc mua hoặc tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ của DNXH, cụ thể, trong năm 2011, đã có tới 185.299 triệu won được sử dụng vào việc này. Để thúc đẩy DNXH phát triển, Chính phủ còn cung cấp các khoản trợ cấp tới các quỹ, tư vấn kinh doanh từ các chuyên gia địa phương hoặc các nhà quản lý giỏi, các chương trình giáo dục, đào tạo cho DNXH.

+ Tại cấp địa phương, cuối năm 2011, 200 chính quyền địa phương đã ban hành thông tư hướng dẫn để thúc đẩy và hỗ trợ DNXH. Cuối tháng 8/2012, đã có 1.522 DNXH nhận được hỗ trợ chi phí lao động và phát triển kinh doanh.

Với những chính sách hỗ trợ trên đây, DNXH tại Hàn Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện tốt vai trò hỗ trợ nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững quốc gia và thế giới.

1.3. Thái Lan

Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là một trong những nước đi tiên phong trong lĩnh vực phát triển DNXH và đã gặt hái được khá nhiều thành công từ mô hình này. Là một trong những nước đi tiên phong trong lĩnh vực phát triển DNXH với các bước phát triển rất tích cực, Thái Lan rất cần và đã có được sự ủng hộ và hậu thuẫn từ Chính phủ cho những chính sách phát triển loại hình doanh nghiệp này:

* Hiến pháp sửa đổi của Thái Lan (1997) đã khuyến khích mạnh mẽ sự tham gia của XHDS và thúc đẩy các sáng kiến xã hội. Thái Lan coi đây là một điều kiện để phát triển nền kinh tế sáng tạo và giảm thiểu tác động tiêu cực (trực tiếp hay gián tiếp) của doanh nghiệp truyền thống tới xã hội và môi trường. Trên cơ sở đó bắt đầu xuất hiện những doanh nghiệp đặc biệt quan tâm đến việc phát triển bền vững, cân bằng các lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội trong hoạt động kinh doanh của mình.

* Từ năm 2009, nhiều chương trình hành động thúc đẩy phát triển DNXH của Chính phủ Thái Lan đã được triển khai mạnh mẽ và đạt được nhiều thành quả đáng mừng: i) 11/2009, thành lập Ủy ban Khuyến khích DNXH trực thuộc Văn phòng Thủ tướng nhằm xây dựng các chính sách chiến lược và chương trình khuyến khích phát triển các DNXH; ii) 1/2010, nội các thông qua kế hoạch chiến lược phát triển DNXH Thái Lan (2010-2014); iii) 1/2010, thành lập Văn phòng Thái Lan về DNXH. Ủy ban là cơ chế truyền dẫn, điều phối và ra quyết định chính sách ở cấp cao nhất dành cho khối DNXH; iv) 4/2011: Ban hành Nghị định của VPTTg về tăng cường hoạt động kinh doanh vì xã hội cấp quốc gia; v) năm 2012: Dự thảo Luật khuyến khích DNXH. Dự thảo Luật khuyến khích DNXH này đang được TSEO đưa ra lấy ý kiến, và theo kế hoạch sẽ trình Nội các và Quốc hội trong năm nay để thông qua.

* Xây dựng dựng khung khổ pháp lý về vấn đề chứng nhận và quy chuẩn hóa DNXH

Vì DNXH được xem là một tổ chức đặc biệt có hình thức nửa công cộng nửa kinh doanh, vì vậy Thái Lan chủ trương đưa ra những quy định rõ ràng thông qua việc xây dựng các tiêu chuẩn công nhận DNXH nhằm hỗ trợ phát triển loại hình này. Chính phủ Thái Lan đưa ra 2 nguyên tắc chính về tài sản đối với DNXH như sau:

– Việc phân chia lợi tức: Việc chi trả lợi nhuận hoặc lợi tức cho các cổ đông không được vượt quá 20% giá trị lợi nhuận ròng hàng năm để bảo đảm rằng doanh nghiệp không hướng tới việc tạo lợi nhuận cao nhất cho các cổ đông, và nhằm hỗ trợ việc nhân rộng kết quả hoạt động hoặc đem phần lớn lợi nhuận để tái đầu tư cho các hoạt động có mục đích tương tự.

– Việc giải quyết tài sản khi ngừng hoạt động: Trong trường hợp DNXH ngừng hoạt động sau khi đã thanh toán mọi khoản nợ, phần tài sản còn lại ngoài vốn đầu tư thì lợi nhuận tích lũy được sẽ được sử dụng theo mong muốn của chủ doanh nghiệp trong đó có phần tài sản được chia cho Quỹ Khuyến khích DNXH.

Trên cơ sở đó, Chính phủ Thái Lan xây dựng một cơ chế nhận biết, phân loại các DNXH. Quy trình chứng nhận (Accreditation process) có thể được gọi như “Hành trình DNXH” (SE journey), gồm 3 bước: Đăng ký (Registering) – Đánh dấu (Marking) – Chứng nhận (Accrediting).

– Giai đoạn 1: là các DNXH theo 6 tiêu chí, hoạt động dưới bất cứ loại hình nào (NGO, công ty, Hợp tác xã…) đều có thể đăng ký.

– Giai đoạn 2: DNXH được phân loại A,B,C hoặc theo màu sắc từ Đỏ-Xanh, tương tự như Fair Trade. Có nhiều tiêu chí, trong số đó tiêu chí dễ áp dụng nhất là tỷ lệ lợi nhuận tái đầu tư trở lại cho mục tiêu xã hội. VD: cao nhất là 80% sẽ được hạng A, thấp nhất là 50% ở hạng C.

– Giai đoạn 3: ví dụ các DNXH đạt trên 80% sẽ được chứng nhận. Và Chính phủ sẽ hỗ trợ các DNXH ở giai đoạn này.

Quan điểm tổng thể là DNXH có thể tham gia thẳng vào Hành trình DNXH ở bất kỳ giai đoạn nào nói trên, miễn là đủ điều kiện, theo hai nhóm yếu tố:

1) Yếu tố bắt buộc phải giải quyết được các vấn đề xã hội, cộng đồng, môi trường. Có hoạt động kinh doanh, không chỉ nhận tài trợ;

2) Yếu tố linh họat (negotiable factors): Tỷ lệ lợi nhuận tái đầu tư trở lại, có thể xê dịch từ 50-80%. Nếu các tiêu chí về tác động xã hội khác cũng có thể đo lường được, cách phân loại này sẽ có thể áp dụng theo cách tương tự.

* Chương trình hỗ trợ DNXH của Thái Lan

Chương trình phát triển DNXH Thái Lan đưa ra các định hướng chính phát triển DNXH như sau: i) Xây dựng sự hiểu biết về DNXH tại Thái Lan; ii) Nâng cao năng lực nhằm phát triển hình thức và phạm vi tác động của DNXH; và iii) Phát triển cách thức tiếp cận nguồn vốn đầu tư và nguồn lực khác.

Trong đó, chương trình phát triển DNXH này cũng xác định rõ một số biện pháp cụ thể để hỗ trợ DNXH, bao gồm:

– Thông báo những ưu đãi đặc biệt cho các DNXH được Văn phòng Ủy ban khuyến khích DNXH chứng nhận (TSEO), có hoạt động nằm trong những lĩnh vực mà Văn phòng Ủy ban khuyến khích đầu tư quy định.

– Ban hành những quyền lợi ưu đãi dành cho DNXH đầu tư vào các hoạt động xã hội và có đóng góp vào Quỹ Khuyến khích DNXH;

– Hỗ trợ các Tổ chức tài chính phát triển cộng đồng (Community Development Financial Institution: CDFI).

Nhìn chung, Thái Lan đã áp dụng cách tiếp cận chính sách từ trên xuống (top- down) để thúc đẩy sự phát triển của DNXH. Chính sự hỗ trợ này đã giúp các DNXH rất nhiều trong việc nâng cao năng lực của mình trong quá trình vận hành và phát triển.

Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu được công bố tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2017, cùng với Singapore và Malaysia, Thái Lan được đánh giá là một trong những nước có năng lực cạnh tranh khá tốt trong khu vực. Trong đó, một trong những điểm mạnh của du lịch Thái Lan là tài nguyên du lịch văn hóa. Đây cũng chính là chất liệu để Thái Lan xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch, trong đó có các sản phẩm DLCĐ. Vì thế, Chính phủ Thái Lan đã triển khai nhiều chính sách nhằm thúc đẩy loại hình du lịch này phát triển.

Nhận thức tầm quan trọng của du lịch đối với sự phát triển quốc gia, Thái Lan chủ trương phát triển hoạt động du lịch một cách bền vững với việc hỗ trợ các cộng đồng phát triển du lịch dựa vào những yếu tố hấp dẫn bản địa đặc trưng. Tuy nhiên, để mang lại sự hài lòng cao nhất cho du khách khi trải nghiệm các hoạt động DLCĐ, những hộ dân trong cộng đồng tham gia vào hoạt động kinh doanh du lịch sẽ được trải qua những khóa đào tạo nâng cao năng lực phục vụ khách du lịch. Nội dung của các khóa đào tạo bao gồm từ việc hoạch định, điều hành chương trình du lịch, triển khai các hoạt động marketing đến việc quản lý nhóm cộng đồng cung cấp dịch vụ DLCĐ. Đồng thời, cộng đồng địa phương cũng được đào tạo cách phân bổ lợi nhuận thu được từ hoạt động DLCĐ tới các nhà cung cấp dịch vụ cũng cách đóng góp vào những hoạt động góp phần vào sự phát triển của cộng đồng. Chính những hoạt động định hướng và đào tạo như trên đã góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương về hoạt động DLCĐ, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ các hoạt động du lịch cung cấp cho du khách.

Tuy nhiên, như đã phân tích trên đây, các sản phẩm DLCĐ được thiết kế dựa trên những nền văn hóa bản địa đặc sắc của cộng đồng. Vì thế, Thái Lan đã triển khai những hoạt động bảo tồn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống nhằm hướng tới các hoạt động DLCĐ bền vững. Tiêu biểu cho các hoạt động này là việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh lưu trú tại nhà người dân địa phương (homestay) cũng như những hoạt động giúp du khách trải nghiệm cuộc sống thường ngày cùng người dân bản địa. Bằng cách này, du khách sẽ được hòa mình vào các hoạt động diễn ra hàng ngày với chính cộng đồng địa phương tại điểm đến, từ đó mang lại những trải nghiệm chân thật nhất về những giá trị văn hóa truyền thống bản địa.

Song song với việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm hướng tới xây dựng những sản phẩm DLCĐ “xanh” là một chiến lược mà luôn được cơ quan quản lý du lịch Thái Lan quan tâm. Bởi cộng đồng địa phương không chỉ dựa vào các giá trị văn hóa của cộng đồng mình để phát triển du lịch mà còn có thể dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ cộng đồng ấy để xây dựng những sản phẩm du lịch kết hợp cả yếu tố tự nhiên và văn hóa, góp phần mang lại những trải nghiệm trọn vẹn nhất cho du khách.

Đặc biệt, luôn coi DLCĐ là một cách thức giúp cộng đồng địa phương xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống nên các cơ quan quản lý du lịch Thái Lan luôn khuyến khích chính cộng đồng địa phương tham gia vào chuỗi cung ứng các dịch vụ du lịch cho du khách. Thay vì để các tổ chức kinh doanh khác ngoài lãnh thổ cộng đồng tham gia vào quá trình phục vụ du khách, cộng đồng địa phương được khuyến khích tham gia vào tất cả các khâu cung cấp dịch vụ cho du khách khi họ tham gia các hoạt động DLCĐ tại địa phương. Bằng cách này, lợi nhuận thu được sẽ quay về địa phương, góp phần đạt được những mục tiêu đã đặt ra cho việc phát triển DLCĐ tại địa phương.

Trên đây là một số kinh nghiệm mà nghiên cứu sinh đã tổng hợp được trong quá trình nghiên cứu điển hình về các chính sách phát triển DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tại ba quốc gia Anh Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan. Những chính sách hỗ trợ các DNXH rất hiệu quả tại hai quốc gia có phong trào xã hội rất mạnh mẽ là Anh Quốc và Hàn Quốc cũng như những chính sách hỗ trợ phát triển DNXH trong lĩnh vực DLCĐ tại Thái Lan sẽ đóng vai trò nền tảng để luận án rút ra những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam trong thời gian tới.

2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong bối cảnh hiện nay, từ những kinh nghiệm phát triển DNXH và DLCĐ ở một số nước nêu trên, có thể rút ra những bài học mà Việt Nam có thể vận dụng trong việc phát triển các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ như sau:

2.1. Bài học thứ nhất: Phát triển về chiều rộng, gia tăng số lượng các DNXH trong lĩnh vực DLCĐ

Có thể thấy, các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động theo tinh thần xã hội ở Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, đến thời điểm cuối năm 2017, chưa có doanh nghiệp kinh doanh DLCĐ nào đăng ký trở thành DNXH đúng theo Luật doanh nghiệp Việt Nam. Lý do của sự chậm trễ trong việc đăng ký doanh nghiệp này là do ngoài những quy định trong luật về điều kiện đăng ký kinh doanh thì hiện tại chưa có văn bản pháp quy nào quy định rõ về hoạt động, cách thức tổ chức cũng như những hỗ trợ từ phía Nhà nước dành cho các DNXH. Chính vì thế, trong giai đoạn đầu phát triển này, để có thể

phát triển số lượng các DNXH, cần có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ cụ thể và hiệu quả từ phía Nhà nước.

2.1.1. Xây dựng khung pháp lý cho DNXH nói chung:

Việc xây dựng khung pháp cho các DNXH nói chung sẽ có tác động lớn tới hoạt động kinh doanh của các DNXH nói chung và DNXH trong lĩnh vực DLCĐ nói riêng. Ở đây, có thể học hỏi những kinh nghiệm trong việc hỗ trợ DNXH từ chính phủ Thái Lan – một quốc gia Đông Nam Á rất gần với Việt Nam. Chính phủ Thái Lan cho rằng, để khuyến khích các DNXH phát triển, cần xây dựng một khung khổ pháp lý về vấn đề chứng nhận và quy chuẩn hóa. Những DNXH khi đã hoàn thiện những điều kiện này rồi sẽ được cấp giấy chứng nhận. Dựa vào đó, các cơ quan quản lý nhà nước về doanh nghiệp có thể phân loại các DNXH. Những DNXH nào đáp ứng đủ những tiêu chí nhận hỗ trợ phía Nhà nước sẽ được lựa chọn và nhận những hỗ trợ thực tế cho công việc phát triển kinh doanh và lan tỏa các tác động xã hội mà doanh nghiệp mình tạo ra. Văn phòng hỗ trợ DNXH Thái Lan TSEO đang xây dựng một quy trình chứng nhận hay còn gọi là “Hành trình DNXH” (SE journey) với 3 bước nhằm lựa chọn DNXH được hỗ trợ phát triển. Đó là: Đăng ký (Registering) – Đánh dấu (Marking) – Chứng nhận (Accrediting) [27,47].

Việt Nam có thể học tập theo những kinh nghiệm trong việc quy định rõ quy trình công nhận DNXH để có cơ sở cung cấp trợ cấp cho các doanh nghiệp này. Điều này cũng có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức đang hoạt động theo mô hình DNXH có động lực để đăng ký trở thành DNXH thực thụ để được hưởng những khuyến khích, hỗ trợ từ phía Nhà nước.

2.1.2. Đẩy mạnh hoạt động truyền thông chính thức về DNXH

Một trong những lý do khiến các DNXH tại Việt Nam chưa đăng ký hoặc chuyển đổi thành DNXH đúng nghĩa theo luật định, bên cạnh lý do về khung pháp lý thì việc nhận thức về loại hình doanh nghiệp này chưa được chú trọng cũng là một lý do chính. Vì thế, trong hoạt động quản lý nhà nước về doanh nghiệp, cần có những thừa nhận chính thức và truyền thông rộng rãi về những đóng góp của DNXH để mở rộng sự nhận diện loại hình doanh nghiệp này. Bằng cách đó, hiệu quả truyền thông sẽ giúp DNXH dễ được công nhận hơn, từ đó có thêm thuận lợi trong việc phát triển kinh doanh, thực hiện các mục tiêu xã hội.

2.1.3.  Xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển DNXH

* Chính sách hỗ trợ tài chính:

Đối với một DNXH, việc vừa phát triển hoạt động kinh doanh vừa thực hiện các mục tiêu xã hội sẽ khiến họ gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những khó khăn ngay từ bước đầu thành lập doanh nghiệp đối với một DNXH, đó là việc tiếp cận vốn. Vì thế, trong chính sách phát triển DNXH cần có những chính sách hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp này.

Các chính sách về hỗ trợ tài chính cho các DNXH tại Việt Nam trong giai đoạn tới có thể học hỏi kinh nghiệm từ Tầm nhìn về một Xã hội lớn của Thủ tướng Vương quốc Anh – David Cameron. Trong đó, Ngân hàng xã hội lớn với Quỹ xã hội lớn là một điểm nhấn quan trọng, giúp hỗ trợ phát triển các DNXH tại đất nước này. Quỹ này sử dụng số tiền 600 triệu bảng Anh từ các tài khoản không được sử dụng trong vòng 15 năm trở lại đây, vốn đang bị đóng băng tại các ngân hàng để đầu tư cho các dự án xã hội. Các dự án này khi hoạt động hiệu quả và có lợi nhuận sẽ trả lại vốn và lãi cho quỹ. Với mô hình Ngân hàng lớn này, Việt Nam có thể huy động các nguồn tài chính hỗ trợ các DNXH từ các tài khoản đóng băng trong thời gian dài tại các ngân hàng để hỗ trợ hoạt động của các DNXH.

Ở Thái Lan, chính sách hỗ trợ tài chính cho DNXH cũng được triển khai, theo đó, ngân hàng quốc gia Thái Lan cho các DNXH vay vốn tín dụng đặc biệt, đồng thời có những chính sách hỗ trợ tạo sự đầu tư tại địa phương thông qua ngân hàng địa phương, trong đó ngân hàng quốc gia Thái Lan chịu trách nhiệm quy định các điều kiện cho việc đầu tư tại địa phương thông qua các ngân hàng địa phương. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể học tập Thái Lan trong việc sử dụng 3% từ tiền thuế Tội lỗi (Sin tax) để hỗ trợ các DNXH. Thay vì thuế Tội lỗi, ở Việt Nam có thể trích một phần từ tiền thuế Tiêu thụ đặc biệt (là thuế gián thu đánh vào các hàng hóa, dịch vụ trong nước nhằm điều tiết mạnh vào các loại hàng hóa, dịch vụ cap cấp hay những sản phẩm tiêu dùng không có lợi cho sức khỏe, góp phần hướng dẫn phát triển sản xuất kinh doanh, tiêu dùng xã hội theo định hướng của Nhà nước) để hỗ trợ các DNXH.

* Chính sách hỗ trợ thuế

Hiện tại, trên thế giới chưa có quốc gia nào có chính sách hỗ trợ thuế cho các DNXH một cách trực tiếp. Tuy nhiên, thông qua các chính sách hỗ trợ thuế cho các hoạt động cộng đồng, các DNXH sẽ gián tiếp có thêm lợi ích và điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Ở Hoa Kỳ, một số chính sách hỗ trợ các hoạt động phát triển cộng đồng cũng đã được triển khai như:

i) Chính sách hỗ trợ thuế mới (New Market Tax Credit) được thực hiện liên tục từ năm 2000 nhằm cung cấp 15 tỷ đô-la hỗ trợ thuế cho các hoạt động đầu tư cho cộng đồng từ 2000 – 2007;

ii) Điều chính qui định thuế (2004): cho phép các tổ chức NPO (không phải trả thuế) được phép hợp tác với các công ty liên doanh vì lợi nhuận.

Chính vì thế, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, để có thể hỗ trợ phát triển các DNXH tại Việt Nam nhằm đẩy mạnh hiệu quả thực hiện các mục tiêu xã hội, nhà nước cũng nên đưa ra những chính sách thuế cụ thể để góp phần hỗ trợ hoạt động kinh doanh và phát huy tinh thần kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này.

* Chính sách xúc tiến mở rộng thị trường

Đối với các DNXH, việc tìm kiếm và mở rộng thị trường là một trong những vấn đề sống còn, đảm bảo hoạt động kinh doanh có thể giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Về vấn đề chính sách, để giải quyết vấn đề này, nhà nước cần có những hỗ trợ và ưu đãi cụ thể đối với các DNXH trong việc đấu thầu, trong việc tìm nguồn ra cho sản phẩm cũng như có những chiến dịch xúc tiến hỗ trợ DNXH mở rộng thị trường. Các chính sách này cần phát huy được sự hợp tác giữa khu vực nhà nước, tư nhân và DNXH như các nước đã làm nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh và mở rộng cơ hội kinh doanh cho các DNXH.

2.2. Bài học thứ hai là Phát triển về chiều sâu: Gia tăng chất lượng các doanh nghiệp xã hội

Song song với các chính sách mở rộng hệ thống DNXH với ngày càng nhiều các DNXH đăng ký hoạt động theo đúng luật định, việc phát triển DNXH cần phải tính đến yếu tố chất lượng các DNXH nhằm mục tiêu phát triển loại hình doanh nghiệp này một cách bền vững. Mà chất lượng hoạt động các DNXH được đo đếm không chỉ dựa vào các chỉ số hoạt động kinh doanh mà còn dựa vào các tác động xã hội mà DNXH mang lại cho cộng đồng hay nhóm người yếu thế. Vì thế, các chính sách hỗ trợ nâng cao chất lượng các DNXH tại Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm một số quốc gia đã triển khai thành công, đó là:

2.2.1. Chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp

Đối tượng chính của những chính sách này đó là các Doanh nhân xã hội. Theo đó, các quốc gia có hệ thống DNXH phát triển đều có những chính sách hỗ trợ Doanh nhân xã hội bởi họ cho rằng hiệu quả hoạt động của DNXH phụ thuộc rất lớn vào tinh thần xã hội cũng như năng lực quản lý của người lãnh đạo doanh nghiệp. Vì thế, trong chuỗi các chính sách hỗ trợ phát triển DNXH, rất cần những chính sách hỗ trợ phát triển các Doanh nhân xã hội như:

(1) Đẩy mạnh vai trò “vườn ươm” Doanh nhân xã hội tại các trường đại học, cơ sở đào tạo chuyên ngành;

(2) Tổ chức các khóa tập huấn nâng cao năng lực quản lý DNXH;

(3) Khuyến khích và hỗ trợ cho tinh thần xã hội của đội ngũ Doanh nhân xã hội…

2.2.2. Chính sách hỗ trợ nghiên cứu và phát triển DNXH

DNXH là một loại hình doanh nghiệp mới. Trên thế giới, các nước cũng đã đầu tư rất nhiều vào việc nghiên cứu lý thuyết cũng như thực tiễn để mở rộng phạm vi áp

dụng của loại hình doanh nghiệp này. Đặc biệt, tại Việt Nam, DNXH mới phát triển ở những bước đi đầu tiên. Vì thế, hoạt động nghiên cứu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định rõ bản chất DNXH để từ đó có những định hướng phát triển cụ thể, phù hợp với thực tế nền kinh tế của đất nước.

2.2.3. Chính sách hỗ trợ tiếp cận vốn và ưu đãi tài chính

Hầu hết các DNXH đều có quy mô nhỏ và vừa. Trong khi đó, phần lớn lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh được phân phối cho cộng đồng, cho xã hội. Vì thế, để khuyến khích loại hình doanh nghiệp này phát triển cùng với việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNXH trên thị trường, Việt Nam nên có những chính sách hỗ trợ và ưu đãi cụ thể về vốn và tài chính. Trong đó, các ưu đãi về lãi suất vốn vay và mức thuế dành cho DNXH nên được xem xét cụ thể.

2.2.4. Chính sách nâng cao chất lượng dịch vụ DLCĐ cung cấp cho du khách

Xét cho cùng, du khách ra quyết định lựa chọn các sản phẩm DLCĐ không phải vì bất cứ điều gì khác ngoài những giá trị mà họ mong muốn nó mang lại. Vì thế, để hấp dẫn du khách, các hoạt động DLCĐ cần phải dựa vào chính những giá trị văn hóa truyền thống bản địa cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ cộng đồng để phát triển các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của du khách. Theo đó, việc đề ra những chính sách giúp bảo tồn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống cùng việc bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên là một trong những việc tiên quyết mà Chính phủ và các cấp quản lý nhà nước về du lịch cần phải ưu tiên hàng đầu.

Những chính sách này nên tập trung vào việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò của hoạt động DLCĐ đối với nền kinh tế địa phương; tập trung vào việc nâng cao năng lực phục vụ du khách thông qua những chương trình đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ năng và thái độ phục vụ du khách. Đồng thời, quan trọng nhất là phải tạo được cơ chế mà ở đó cộng đồng địa phương tự mình quản lý được hoạt động DLCĐ tại chính địa phương mình. Đây là cốt lõi để phát triển hoạt động DLCĐ một cách bền vững, giúp cộng đồng ngày càng nâng cao năng lực phát triển hoạt động DLCĐ, từ đó góp phần gia tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng địa phương tại điểm đến du lịch.

Tóm lại, kế thừa những thành tựu mà DNXH đã đạt được qua quá trình phát triển tại một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam có thể học hỏi những bài học kinh nghiệm quý báu mà các nước đã trải qua để có những quyết sách phù hợp trong việc tạo dựng cơ chế thuận lợi nhất, thúc đẩy các DNXH phát triển.

Tham khảo thêm

  1. Vũ Hương Giang (2019). Nghiên cứu phát triển doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế. Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương. Hà Nội.
  2. Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: khái niệm, bối cảnh và chính sách. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Hội đồng Anh tại Việt Nam (British Coucil), Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) (2012). Đề tài nghiên cứu khoa học, 2021. Hà Nội.
  3. Hindle, K., (2010), How community context affects entrepreneurial process: a diagnostic framework. Entrep. Reg. Dev..
Share.