Trong quá trình quản lý giáo dục hướng nghiệp (QLGDHN) ở trường trung học phổ thông theo định hướng phát triển nhân lực, cán bộ quản lý giáo dục cần lưu ý một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng quản lý giáo dục hướng nghiệp như sau:
Chiến lược phát triển giáo dục
Một trong những yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông chính là chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo của quốc gia, yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đổi mới công tác quản lý giáo dục nói chung và QLGDHN nói riêng. Đặc biệt là đối với Việt Nam, nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế nằm trong chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo chính là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những năm tiếp theo. Do đó, khi QLGDHN , cán bộ quản lý giáo dục cần nắm vững một số nội dung chính của chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo quốc gia như [2]:
Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học, cấp học, giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Mục tiêu cụ thể của giáo dục phổ thông là: “Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao, đặc biệt chất lượng giáo dục văn hóa, đạo đức, kỹ năng sống, pháp luật, ngoại ngữ, tin học.”
Cũng cần lưu ý đến mục tiêu cụ thể của giáo dục nghề nghiệp vì đây cũng là một bộ phận góp phần cùng giáo dục phổ thông thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho học sinh: “…đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường lao động và một bộ phận có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới”.
Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo cũng nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới quản lý giáo dục với nhiều nội dung chi tiết, tuy nhiên, bài viết nhận thấy 2 nội dung có liên quan đến QLGDHN ở trường trung học phổ thông là:
Một là: “tập trung vào quản lý chất lượng giáo dục: chuẩn hóa đầu ra và các điều kiện đảm bảo chất lượng … xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục, thực hiện kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục…”;
Hai là: “đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục ở các cấp.”
Nội dung chương trình giáo dục phổ thông
Sự ảnh hưởng của nội dung chương trình giáo dục phổ thông đến giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông. Do đó, trong điều kiện cho phép, cán bộ quản lý giáo dục cần có giải pháp đổi mới, bổ sung các nội dung giáo dục hướng nghiệp cần thiết và có liên quan đến địa phương để giáo dục hướng nghiệp có nét đặc thù của địa phương hơn, góp phần phân luồng và đáp ứng nhu cầu nhân lực của địa phương một cách hiệu quả hơn. Mặt khác, từ ngày 22/4/2015, đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và sẽ bắt đầu áp dụng sách giáo khoa mới vào năm học 2018-2019 theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự học của học sinh; tăng cường tính tương tác trong dạy và học giữa thầy với trò, trò với trò và giữa các thầy giáo, cô giáo. Chương trình cũng tiếp nối, liên thông giữa các cấp học, môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo; đồng thời đảm bảo giảm tải, thiết thực, kế thừa ưu điểm của chương trình hiện hành và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các nước giáo dục phát triển, đảm bảo hội nhập quốc tế. Sách giáo khoa mới chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nhất định đến giáo dục hướng nghiệp và QLGDHN trong trường phổ thông.
Tính liên thông của hệ thống giáo dục
Tính liên thông của hệ thống giáo dục quốc gia (liên thông dọc, liên thông ngang, công nhận bằng cấp lẫn nhau) tạo điều kiện tốt nhất cho công tác phân luồng sau trung học phổ thông được thông suốt để cơ hội học tập và làm việc của học sinh được rộng mở hơn cũng chính là một yếu tố mà cán bộ quản lý giáo dục cần nắm rõ. Thực tế, việc liên thông dọc, liên thông ngang, công nhận bằng cấp của nhau giữa các cơ sở đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông chưa mạnh mẽ, gây khó khăn cho công tác phân luồng học sinh vào các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gián tiếp làm cho giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học phổ thông bị hạn chế.
Chiến lược phát triển và quy hoạch phát triển nhân lực
Ngoài ra, một yếu tố khác có tác động sâu sắc đến QLGDHN ở trường trung học phổ thông, đó là chiến lược phát triển nhân lực và quy hoạch phát triển nhân lực của cả nước và địa phương. Đây chính là các văn bản mang tính định hướng phát triển cho cả nước và từng địa phương về vấn đề nhân lực, nói cách khác, để chọn được một nghề, học sinh phải trả lời được 3 câu hỏi cơ bản:
(1) Tôi thích nghề gì?
(2) Tôi có khả năng làm nghề gì?
(3) Xã hội có cần nghề đó hay không?
Câu hỏi thứ ba chính là yếu tố ảnh hưởng đến QLGDHN trong trường trung học phổ thông: nếu giáo dục hướng nghiệp chỉ mới dừng lại ở việc giúp học sinh tìm hiểu các ngành nghề mà địa phương chưa cần trong hiện tại và tương lai, tức là giáo dục hướng nghiệp của trường trung học phổ thông chưa gắn kết với định hướng cơ cấu ngành nghề được trình bày trong chiến lược phát triển nhân lực của địa phương, thì chất lượng của giáo dục hướng nghiệp chưa được đảm bảo do nội dung chưa phù hợp, hay nói cách khác, QLGDHN chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Tóm lại, nhà trường không nên định hướng cho học sinh những ngành nghề mà địa phương không cần mà ngược lại, cần bám sát chiến lược và quy hoạch nhân lực của địa phương và đất nước trong từng thời kỳ nhất định.
Bên cạnh chiến lược và quy hoạch nhân lực của địa phương, còn một lĩnh vực khác ảnh hưởng khá lớn đến hiệu quả của giáo dục hướng nghiệp nói riêng và QLGDHN nói chung, đó là các dự báo nhu cầu nhân lực của địa phương và cả nước.
Dự báo, số liệu dự báo ngành nghề
Vấn đề quan trọng cần lưu ý, đó là tính cập nhật và tính giá trị của các thông tin dự báo, các số liệu dự báo ngành nghề chính là những thông số giúp học sinh chọn lựa hướng đi thích hợp hơn. Tuy nhiên, các số liệu này phải có giá trị sử dụng ít nhất trong vòng 10 năm. Ngược lại, nếu dự báo có giá trị sử dụng quá ngắn (dưới 5 năm) thì sau khi được đào tạo xong ở ngành nghề A thì xã hội đã chuyển qua có nhu cầu đối với ngành nghề B, khi đó, học sinh sẽ khó tìm được việc làm hoặc nếu có tìm được việc làm thì cũng khó thăng tiến trong nghề.
Ngoài ra, danh mục các ngành nghề mới xuất hiện và những ngành nghề đang mất đi cũng cần được cập nhật thường xuyên và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng, đặc biệt là khu vực trường học. Những yêu cầu mới về kỹ năng nghề nghiệp của thị trường lao động cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh, từ đó, giáo dục hướng nghiệp cũng như QLGDHN cũng bị ảnh hưởng, đòi hỏi phải được đổi mới liên tục và thường xuyên, giúp học sinh hiểu được những yêu cầu mới của thị trường lao động, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay.
Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh
Học sinh trung học phổ thông ở lứa tuổi đầu thanh niên (16-18 tuổi) đang dần ổn định và trưởng thành về tâm sinh lý, nói cách khác, đây là thời kỳ năng lực trí tuệ, nhân sinh quan, thế giới quan, lý tưởng và toàn bộ nhân cách của trẻ đang biến đổi và phát triển về chất. Học sinh trung học phổ thông là những học sinh đang theo học lớp 10, 11,12 trong hệ thống các cơ sở giáo dục. Các nhà tâm lý học lứa tuổi còn gọi độ tuổi này là tuổi thanh niên mới lớn và được xem là thời kỳ đặc biệt quan trọng của cuộc đời vì lứa tuổi này là thời kỳ kết thúc căn bản quá trình trưởng thành và phát triển lâu dài của đứa trẻ về tâm, sinh lý. Có thể nói, nhân cách của các em đã được định hình về cơ bản, trong đó bao gồm cả nhân cách nghề nghiệp.
Cùng với sự phát triển về các mặt như: chiều cao, trọng lượng cơ thể, hệ xương, hệ cơ, các chức năng sinh lý được hoàn thiện thì sự phát triển của hệ thần kinh cũng có những thay đổi quan trọng, do cấu trúc bên trong của bộ não phức tạp và các chức năng của não phát triển hơn. Đây chính là điều kiện cần và đủ cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp trong quá trình học tập và tư duy. Tính chủ động, tích cực, tự giác được thể hiện rõ rệt ở tất cả các quá trình nhận thức. Có thể nói, năng lực tư duy, tưởng tượng và các năng lực khác ở các em được hoàn thiện nhanh chóng và có chất lượng cao. Các quá trình cảm giác và tri giác đạt tới mức độ hoàn thiện và tinh tế. Ở độ tuổi này, tư duy của các em đã có những thay đổi quan trọng: tư duy trừu tượng phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động học tập; Khả năng tư duy lý luận, tư duy độc lập, sáng tạo rất phát triển. Song đôi khi, các em còn kết luận vội vàng nên chưa phát huy được năng lực độc lập, suy nghĩ của mình.
Tự ý thức
Học sinh trung học phổ thông có quá trình tự ý thức, tự giáo dục, tu dưỡng diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện hơn ở tuổi thiếu niên rất nhiều. Phần lớn các em đã ý thức rõ được vai trò, vị trí của mình trong gia đình, nhà trường và xã hội. Trong gia đình, các em đã là một thành viên chính và muốn được tham gia vào các công việc quan trọng của gia đình, muốn được coi là người lớn. Ngoài xã hội, các em hăng hái tham gia vào các hoạt động xã hội, vào các mối quan hệ xã hội để tự rèn luyện bản thân và khẳng định mình. Còn ở trường, các em tích cực học tập để trau dồi tri thức, hoàn thiện nhân cách. Thái độ, ý thức học tập của các em không ngừng được nâng cao và có tính lựa chọn hơn đối với các môn học theo sở thích, định hướng nghề nghiệp của mình. Do đó, không ít học sinh trung học phổ thông chỉ tích cực học một số môn có liên quan đến nghề mình yêu thích mà xao nhãng các môn học khác, dẫn đến tình trạng học lệch khá phổ biến. Ở lứa tuổi này, các em thường băn khoăn, suy nghĩ để tìm ra phương hướng cho cuộc đời mình, các em thường đặt ra những câu hỏi như “mình sẽ ra sao?”, “mình sẽ làm nghề gì?”, “mình sẽ trở thành người như thế nào?”. Vì vậy, công tác quản lý và tổ chức hiệu quả giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông sẽ giúp ích rất nhiều cho tương lai của học sinh. Thật vậy, càng ở những lớp cuối của cấp học trung học phổ thông thì học sinh càng quan tâm, lo lắng đến nghề nghiệp vì các em nhận thức được rằng được làm một nghề mình yêu thích và có ích cho xã hội chính là niềm hạnh phúc của mỗi con người.
Nhận thức của cộng đồng
Nhận thức của cộng đồng về “giáo dục hướng nghiệp theo định hướng phát triển nhân lực” cũng được xem như một yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục hướng nghiệp và QLGDHN. Theo Nguyễn Văn Lê, toàn xã hội, các ngành, các cấp cần có nhận thức rõ ràng về vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Mục tiêu đào tạo nhân lực phải là mục tiêu hàng đầu trong hệ thống mục tiêu của giáo dục và đào tạo. Nói cách khác, mọi gia đình, mọi cá nhân phải thấy được sự cần thiết và lợi ích của việc đánh giá đúng hoàn cảnh kinh tế, khả năng học tập của bản thân mà lựa chọn con đường học tập cho phù hợp. Cần làm cho toàn xã hội thấy rằng việc hướng nghiệp cho học sinh đi vào các hướng khác nhau là bình thường và hợp lý [3]. Do đó, cán bộ quản lý giáo dục cần nắm vững quan điểm này, tuy nhiên, cần kết hợp với quy hoạch phát triển nhân lực của từng địa phương để có nội dung giáo dục hướng nghiệp riêng, phù hợp với nhu cầu nhân lực của địa phương đó.
Ngoài ra, ở Việt Nam còn xuất hiện tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” do tâm lý trọng sự học và trọng bằng cấp đã ăn sâu trong văn hóa Việt Nam, xã hội thường trọng người “có chữ”, “có học”, thang đo giá trị con người là bằng cấp. Do đó, cán bộ quản lý giáo dục cần chỉ đạo giáo dục học sinh thay đổi dần nhận thức về nghề nghiệp, không có nghề nào là thấp kém, nghề nào cũng vinh quang, cũng giúp học sinh cống hiến cho sự phát triển của đất nước, gia đình và bản thân mình. Từ đó, cần xóa bỏ quan niệm “Đại học là con đường thành công duy nhất” để mạnh dạn theo học nghề và làm những nghề phù hợp với sở thích, năng lực và nhu cầu của xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Thông tin và truyền thông
Các phương tiện thông tin truyền thông cũng là một tác nhân có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của giáo dục hướng nghiệp và QLGDHN. cán bộ quản lý giáo dục cũng cần chú ý và tận dụng ưu điểm của các phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền thông đa phương tiện (truyền hình kỹ thuật số, các trang mạng xã hội, trang web của trường…) như là một kênh cung cấp thông tin thế giới nghề nghiệp hiệu quả, phong phú và nhanh chóng dành cho học sinh. Hiện nay, số lượng học sinh truy cập vào các trang mạng xã hội để tìm kiếm và trao đổi thông tin không phải là ít, do đó, đây sẽ là một yếu tố tích cực cho việc quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông. Đương nhiên là các thông tin cung cấp trên các phương tiện truyền thông này cũng không tách rời quy hoạch nhân lực của địa phương cũng như của cả nước.
Nhận thức của đội ngũ giáo viên
Nhận thức của đội ngũ giáo viên, nhân viên trong trường cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của giáo dục hướng nghiệp vì cần xem đây là nhiệm vụ của cả hội đồng sư phạm nhà trường chứ không phải của bất cứ cá nhân nào hoặc không phải của riêng Ban giáo dục hướng nghiệp (nếu trường có thành lập). Sự phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ xuyên suốt, nhịp nhàng giữa các bộ phận, cá nhân trong trường trung học phổ thông chính là một điểm cộng giúp cho giáo dục hướng nghiệp hiệu quả hơn, đặc biệt trong việc truyền lửa yêu lao động và giúp các em có thái độ đúng đắn đối với lao động. Ngoài ra, sự tin tưởng của học sinh đối với đội ngũ thầy, cô giáo cũng có ảnh hưởng tích cực khi thầy cô cho lời khuyên định hướng nghề nghiệp dựa vào quá trình theo dõi năng lực, sở thích của học sinh. Có những học sinh chọn nghề theo lời khuyên của người thầy, người cô kính mến của mình và đã thành đạt, tuy nhiên, vẫn có trường hợp thầy cô đưa ra lời khuyên tuy phù hợp ở mức độ nào đó với năng lực, sở thích của học sinh nhưng xã hội lại chưa cần đến ngành nghề cụ thể đó, do đó, học sinh không có nhiều điều kiện phát triển trong nghề. Thực tế này đòi hỏi mỗi giáo viên, nhân viên của nhà trường cũng cần được tập huấn, hướng dẫn nghiêm túc, khoa học về nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp của nhà trường, đặc biệt là cần bám sát mục tiêu phát triển nhân lực của địa phương và cả nước chứ không định hướng một cách tùy tiện, nghề nào cũng được hoặc không có nghề nào là phù hợp với học sinh cả.
Các yếu tố khác ảnh hưởng đến chất lượng quản lý giáo dục hướng nghiệp
Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng đến chất lượng quản lý giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông như: điều kiện về cơ sở vật chất; bộ máy tổ chức giáo dục hướng nghiệp; công tác xã hội hóa giáo dục hướng nghiệp của nhà trường; các phương pháp thu thập, xử lý và chia sẻ thông tin giáo dục hướng nghiệp đến giáo viên và học sinh; việc đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục hướng nghiệp cũng như công tác kiểm tra, đánh giá giáo dục hướng nghiệp và sử dụng kết quả kiểm tra, đánh giá nhằm cải tiến chất lượng giáo dục hướng nghiệp .
Tham khảo
1. Phạm Đăng Khoa (2017). Quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT theo định hướng phát triển nhân lực thành phố Hồ Chí Minh.
2. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012). Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Lê (2004). Đề tài KX-05-09: Giáo dục phổ thông và hướng nghiệp- nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, Hà Nội.