1. Tự chủ đại học ở Hoa Kỳ

Là một quốc gia điển hình theo cơ chế phi tập trung hoá, phân cấp, phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương các bang và các quận. Trên thực tế, Bộ giáo dục chỉ chịu trách nhiệm về các chương trình đặc biệt như nhóm dân tộc thiểu số, giáo dục cho người tàn tật, mà không thực hiện chức năng quản lý nhà nước một cách trực tiếp và toàn diện đối với toàn bộ hệ thống giáo dục liên bang. Việc quản lý hệ thống giáo dục thuộc về mỗi bang. Chính quyền bang cũng chỉ quản lý giáo dục đại học một phần, bằng việc đầu tư một khoản kinh phí và cử một người đại diện tham gia Hội đồng quản trị của các trường đại học công. Các trường này gần như hoàn toàn tự trị, có quyền tự chủ rất cao trong quản lý mọi mặt hoạt động của nhà trường trong khuôn khổ pháp luật (Luật Liên bang và Luật của từng bang). Các trường tư thục, quyền tự chủ của nó còn lớn hơn nhiều. Ở Hoa Kỳ, quyền tự chủ cao nhất là ở các trường đại học định hướng nghiên cứu, thấp nhất là ở các trường cao đẳng cộng đồng.

Đặc trưng của hệ thống GDĐH Hoa kỳ, theo một số tác giả cho rằng có các đặc trưng sau:

(1) Tính phi tập trung: Đối với hệ thống GDĐH Hoa kỳ không có một bộ hoặc cơ quan trung ương nào của Chính phủ Liên bang quản lý trực tiếp, đưa ra những phương hướng chỉ đạo nghiêm ngặt hoặc những khuôn mẫu cứng nhắc áp đặt từ trên xuống. Trong việc quản lý hệ thống GDĐH Hoa kỳ xu hướng mọi hoạt động phát triển từ dưới lên thể hiện rất rõ.

(2) Tính thực tiễn: Tuy GDĐH Hoa Kỳ du nhập từ Châu Âu, chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của các mô hình GDĐH truyền thống hàn lâm của Châu Âu, đặc biệt là của Anh và Đức, nhưng tính truyền thống đó không hoàn toàn áp đặt mọi sắc thái của GDĐH Hoa Kỳ. Việc đào tạo ở các trường đại học phục vụ rất sát yêu cầu của sản xuất, của sự phát triển kinh tế xã hội.

(3) Tính đại chúng: Nó không chỉ biểu hiện ở số lượng sinh viên, mà có nguồn gốc từ cơ cấu của hệ thống GDĐH và tính chất của các trường đại học.

(4) Tính thị trường: Đây có lẽ là đặc điểm bao trùm nhất, thể hiện rõ nét nhất của GDĐH Hoa Kỳ. Quyền tự chủ cao của các trường đại học giúp họ di chuyển nguồn lực giữa các chương trình và khoa ngành đào tạo để đáp ứng sự thay đổi về nhu cầu nhập học. Cũng tương tự như vậy đối với công việc nghiên cứu: các nhóm nghiên cứu cạnh tranh nhau để được nhận kinh phí, còn các cơ quan cấp kinh phí thì thu được lợi ích từ chất lượng công trình nghiên cứu mà họ mua. Tuy trong GDĐH Hoa Kỳ, quy luật của thị trường được coi trọng và khai thác, nhưng không phải GDĐH được phó mặc cho thị trường.

Ở Hoa Kỳ, mỗi trường có Hội đồng trường, đại diện cho quyền lợi của người dân. Hội đồng này có trách nhiệm yêu cầu Hiệu trưởng đưa ra những chính sách để đáp ứng yêu cầu của cộng đồng địa phương. Hiệu trưởng lại cụ thể hoá những yêu cầu xuống các Khoa. Tự chủ của các trường là tự chủ ngay trong từng khoa, từng lớp học. Khoa có quyền quyết định học môn này hay môn kia, học sách này hay sách kia. Giáo viên có quyền lựa chọn cách dạy cho phù hợp.

Chính vì vậy, cùng một chuyên ngành, cùng trong một bang, nhưng nếu học ở các trường khác nhau, bạn sẽ được học các chương trình, giáo trình không giống nhau. Phương pháp dạy của giáo viên cũng khác nhau. Trường được quyền liên kết với các doanh nghiệp để đưa ra chương trình đào tạo phù hợp nhất với yêu cầu thực tế. Điều duy nhất Chính phủ quản lý là chất lượng nguồn nhân lực mà trường đào tạo ra, còn đào tạo như thế nào là việc của trường, Chính phủ không can thiệp. Việc kiểm định chất lượng giáo dục được tổ chức 10 năm một lần, các trường phải trải qua một kỳ kiểm tra chất lượng được tổ chức bởi một Hội đồng độc lập, không phải thuộc Chính phủ hay thuộc bang. Hội đồng kiểm tra những gì trường làm và cả những gì trường nói là đã làm.

Hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ là một hệ thống khá điển hình ở một nước có trình độ khoa học – công nghệ và phát triển kinh tế cao, định hướng thị trường mạnh. Ưu điểm của nó là tạo ra một nền giáo dục bậc cao đại chúng gắn bó chặt chẽ và bền vững với cộng đồng địa phương, có quan hệ mật thiết với nền kinh tế, bám sát nhu cầu của thị trường lao động. Nguyên tắc cạnh tranh cũng buộc các trường đại học phải không ngừng đầu tư hiện đại hoá cơ sở vật chất, thu hút và khuyến khích những giảng viên giỏi làm việc cho trường, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.

Các trường đại học ở Hoa Kỳ được đánh giá là các trường có mức độ tự chủ cao nhất thế giới. Chính điều này đã góp phần đáng kể cung cấp cho xã hội một đội ngũ đông đảo những trí thức, những nhà khoa học cũng như hàng triệu công nhân kỹ thuật lành nghề, góp phần phát triển nền kinh tế Mỹ qua nhiều thời kỳ để trở thành cường quốc kinh tế, khoa học – công nghệ trên thế giới. Các trường đại học Hoa Kỳ luôn được đánh giá cao và có uy tín lớn trên thế giới. Theo một khảo sát năm 2007 của Đại học Giao thông Thượng Hải (Trung Quốc), Hoa Kỳ đã chiếm 8 trường đại học trong số 10 trường hàng đầu thế giới.

Để có thể học tập những gì từ hệ thống GDĐH Hoa Kỳ nhằm áp dụng vào giáo dục đại học Việt Nam, cần phải hiểu được bản chất của nó. Giáo dục đại học Hoa Kỳ với lịch sử chỉ khoảng hơn bốn trăm năm so với GDĐH phương Đông và GDĐH Châu Âu thì hết sức non trẻ.

Thế mà giáo dục đại học Hoa Kỳ lại rất thành công và có sức hấp dẫn hết sức lạ kỳ đối với nhiều nước trên thế giới với mô hình tự chủ đại học tuyệt đối. Nhật Bản đã chọn mô hình GDĐH Hoa Kỳ để noi theo từ thời Minh Trị, Trung Quốc đã xây dựng lại nền GDĐH của mình chủ yếu theo kiểu Hoa Kỳ từ khi thực hiện cải cách mở cửa, và gần nhất, “quá trình Bonogna” của Châu Âu thực hiện một cuộc cải cách sâu rộng về GDĐH bắt đầu từ năm 1999 để thiết lập một “không gian GDĐH Châu Âu” vào năm 2010, trong đó có rất nhiều yếu tố tương đồng với GDĐH Hoa Kỳ. Vì sao nền GDĐH Hoa Kỳ có sức hấp dẫn mạnh mẽ như vậy? những yếu tố nào từ lịch sử phát triển đã tạo nên sức mạnh hiện tại của GDĐH Hoa Kỳ? Mọi người đều biết GDĐH Hoa kỳ không phải là một nền GDĐH “cội nguồn”, nó chịu nhiều ảnh hưởng của GDĐH Châu Âu, đặc biệt là của Anh và Đức.

Nhưng hệ thống GDĐH Hoa kỳ không bị ràng buộc bởi các khuôn phép của các trường đại học theo kiểu cũ Châu Âu, điều đó lại tạo nên tính đa dạng của hệ thống GDĐH Hoa Kỳ. Chính tính đa dạng của hệ thống tạo nên sự phong phú về chức năng giúp phục vụ cho nhu cầu phát triển đa dạng của xã hội. Sự phát triển đa dạng và nhanh chóng của hệ thống GDĐH đó được điều khiển không phải bởi một sự chỉ đạo thống nhất của quốc gia, mà bởi sự lựa chọn từ cơ chế cạnh tranh của thị trường .

Giáo dục đại học Hoa Kỳ thành công như ngày hôm nay là vì: GDĐH Hoa Kỳ tôn trọng các quy luật của thị trường và có ý thức khai thác chúng, các lực thị trường đã tạo nên sự cân bằng động cho hệ thống. Thêm nữa, Nhà nước Hoa Kỳ còn có những tác động gián tiếp hỗ trợ thêm cho các tác động tích cực của thị trường. Như vậy, hệ thống GDĐH Hoa Kỳ phát triển đa dạng nhưng ổn định vì nó được giữ chủ yếu bởi các lực liên kết bên trong chứ không phải bằng những tác động áp đặt trực tiếp từ bên ngoài.

Để học tập hệ thống GDĐH Hoa Kỳ áp dụng vào Việt Nam trước hết cần phải hiểu biết sâu sắc hệ thống đó, hơn nữa cũng phải hiểu rõ bản thân mình và cái mà mình cần. Đối với Việt Nam, điều kiện kinh tế xã hội của nước ta so với Hoa kỳ còn nhiều khác biệt, do đó việc học tập kinh nghiệm của hệ thống GDĐH Hoa Kỳ không phải dễ dàng.

Tuy hệ thống GDĐH của nước ta hiện nay về hình thức có đôi nét gần với mô hình Mỹ, nhưng vận hành của hệ thống GDĐH của chúng ta còn rất kém năng động so với hệ thống GDĐH Hoa Kỳ. Chính vì vậy, để áp dụng các kinh nghiệm của GDĐH Hoa Kỳ vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là phải có tính trực tiếp và có sự tự nguyện.

2. Tự chủ đại học ở Nhật Bản

Quản lý giáo dục bằng pháp luật. Đây là tư tưởng cơ bản được thể hiện rõ trong chính sách phát triển giáo dục ở Nhật Bản. trong tất cả các giai đoạn phát triển của giáo dục Nhật Bản từ thời Minh Trị cho đến nay tất cả các chủ trương, đường lối và chính sách phát triển giáo dục đều được thể chế hoá bằng luật pháp: từ các đạo luật về phổ cập giáo dục cho đến các đạo luật về tổ chức cơ cấu hệ thống giáo dục và mở các loại hình trường, giáo viên… Chính nhờ hệ thống các đạo luật này mà các mục tiêu cơ bản của chính sách giáo dục được thực hiện nhất quán và đạt được nhiều kết quả tốt.

Mô hình quản lý nhà nước về giáo dục của Nhật Bản mang nặng tính tập trung và thống nhất quốc gia. Cơ quan trung ương về quản lý giáo dục là Bộ Giáo dục. Trước đây, các trường đại học quốc gia ở Nhật về cơ bản được xem như là một tổ chức của Nhà nước. Các hoạt động nghiên cứu và giáo dục phụ thuộc phần nhiều vào ngân sách nhà nước. Nhân sự và tổ chức của trường đều nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Điều này đã khiến các trường bị hạn chế trong công tác quản lý và chi tiêu dẫn đến kìm chế sự sáng tạo và phát triển của các trường.

Năm 1999, một cuộc họp nội các Nhật đã xác định việc chuyển đổi đại học quốc gia thành công ty quản trị độc lập là một trong những biện pháp cải cách đại học quốc gia, đặc biệt về vấn đề quyền tự chủ của các trường đại học. Đến tháng 4 năm 2004, tất cả các trường đại học quốc gia ở Nhật đều chuyển đổi thành công ty đại học quốc gia. Tức là theo mô hình tự chủ đại học tuyệt đối.

Theo Luật Công ty đại học quốc gia, các quy định về ngân sách và nhân sự sẽ được bãi bỏ nhằm giúp tăng cường cạnh tranh và bảo đảm tính tự chủ của mỗi trường. Thay đổi lớn nhất về nhân sự là tập thể nhân viên của trường không còn là công chức nữa và không còn lệ thuộc vào nhà nước. Nhà nước chỉ còn chức năng đánh giá chất lượng, thành lập và đóng cửa trường đại học và cung cấp nguồn ngân sách cần thiết cho mỗi công ty đại học quốc gia dựa trên đánh giá của bên thứ ba. Thay đổi lớn nhất về quản lý nội bộ là các công ty đại học quốc gia có Hội đồng quản trị, Hội đồng nghiên cứu và giáo dục. Trong đó Chủ tịch hội đồng quản trị là người có quyền lực cao nhất.

Hoạt động theo kiểu công ty đã giúp cho các đại học quốc gia ở nhật có quyền tự chủ cao hơn. Mặc dù được nhận hỗ trợ tài chính nhiều từ Chính phủ nhưng các trường này có nhiều quyền không kém các trường tư. Trường được phép lựa chọn giáo sư, trả lương phù hợp, quyết định mức học phí, mở cửa thị trường để hợp tác với bên ngoài, không lệ thuộc vào chính sách của nhà nước mà dựa trên đánh giá hiệu quả đầu ra. Mô hình này đã cải thiện năng lực hoạt động và đem lại hiệu quả và chất lượng đào tạo cho các trường đại học.

Năm 2005, theo một báo cáo, 87 trường đại học quốc gia chuyển đổi thành công ty đã thành công trong việc giảm tổng số tiền trả lương được 13,7 tỷ yên (1.836 tỷ đồng Việt Nam) và kiếm được 11,8 tỷ yên (1.580 tỷ đồng Việt Nam) từ bản quyền sáng chế. Kết quả, các trường này đạt được khoản lợi nhuận tổng cộng 71,6 tỷ yên (9.600 tỷ đồng Việt Nam). Điều đáng nói nữa là, năm 2007 trường đại học Tokyo Nhật Bản được xếp vị trí thứ 20 trong 100 trường đại học uy tín nhất thế giới.

3. Tự chủ đại học ở các nước Châu Âu

Uỷ ban Châu Âu và một số lượng đáng kể các chính phủ ở Châu Âu đã công nhận sự cần thiết trao quyền tự chủ cho các trường đại học. Tuy nhiên, mức độ tự chủ đại học còn tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của mỗi quốc gia và không có một mô hình lý tưởng của quyền tự chủ đại học cho tất cả các nước, mà là một tập hợp các nguyên tắc cơ bản các yếu tố cấu thành quan trọng của quyền tự chủ. Chính vì vậy, sự can thiệp của Nhà nước vào các trường đại học cũng có nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Tự chủ đại học ở Châu Âu được thể hiện qua một nghiên cứu. Cụ thể như sau:

Qua các nghiên cứu cho thấy, phần lớn các trường đại học ở các nước Châu Âu được quyền quyết định cơ cấu quản trị mà ít có sự can thiệp của pháp luật. Nhưng cũng có trường hợp để xác định cơ cấu quản trị, các trường đại học phải căn cứ vào pháp luật, đó là ở Bulgaria. Trong hầu hết các trường đại học ở các quốc gia Châu Âu sử dụng cơ cấu quản trị kép bao gồm một Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành phố và một ban giám hiệu. Các trường được quyền lựa chọn và miễn nhiệm hiệu trưởng. Một số ít nước vẫn sử dụng cơ cấu đơn nhất truyền thống (chỉ có Ban giám hiệu). Việc bầu và miễn nhiệm hiệu trưởng lại do một hội đồng bên ngoài trường hoặc do các cơ quan nhà nước.

Trong một số khía cạnh của tự chủ biên chế, các trường đại học ở Châu Âu được quyền linh hoạt lớn hơn. Trường được trực tiếp tuyển dụng và chi trả lương. Tuy nhiên, ở một số nước như: Croatia, Hy Lạp, các trường đại học không có quyền xác định số lượng nhân viên mà trường tuyển dụng, không kiểm soát tiền lương tổng thể, thậm chí mức lương cá nhân cũng được cơ quan nhà nước xác định. Thực tế nghiên cứu cho thấy, đa số nhân viên có tư cách công chức ở các nước đều mong muốn cần phải tiếp tục thay đổi các hình thức việc làm linh hoạt hơn cho nhân viên các trường đại học.

Việc phân bổ kinh phí hàng năm cho các trường đại học thường cấp trực tiếp từ Bộ có liên quan, ở cấp quốc gia hoặc khu vực. Rất ít quốc gia việc phân bổ kinh phí lại thông qua một cơ quan trung gian (ví dụ: Anh, reland và Rumani). Kinh phí nghiên cứu tài trợ cho các trường đại học thường thông qua một cơ quan trung gian và căn cứ vào đề nghị của các trường để cấp. Ngoại trừ Hy Lạp, Malta, Serbia do Bộ trực tiếp cấp. Các trường đại học được quyền giữ và xây dựng quỹ dự trữ từ kinh phí tự tạo ra. Còn nguồn kinh phí nhà nước cấp ở một số nước các trường phải trả lại phần thặng dư vào cuối năm tài chính (ví dụ: Romania, Serbia, Thổ Nhĩ Kỳ, Bồ Đào Nha).

Trong tất cả các nước còn lại, các trường đại học được phép giữ lại phần thặng dư đó. Việc thiết lập các lệ phí, có ba mô hình hiện tại ở Châu Âu: Mô hình thứ nhất, là các trường đại học có quyền thiết lập các mức lệ phí, mô hình này đang thực hiện ở mười nước, chủ yếu là các nước ở Đông Âu. Mô hình thứ hai, việc thiết lập các mức lệ phí là do cơ quan công quyền (ví dụ: Pháp, Spain, Thổ Nhĩ Kỳ). Mô hình thứ ba, là mô hình phổ biến nhất, các trường đại học và Chính phủ cả hai thiết lập các mức lệ phí, theo phương thức khác nhau. Chính phủ có thể thiết lập một mức trần theo đó các trường đại học được tự do quyết định về mức lệ phí. Trong quá trình hoạt động hai phần ba các nước cho phép các trường đại học được phép vay tiền từ ngân hàng với các yêu cầu khác nhau. Khoảng một phần ba các nước không cho phép các trường đại học vay tiền từ ngân hàng. Ngoài ra, có một số ít nước cho phép các trường đại học đầu tư vào cổ phiếu và cổ phần hoặc phát hành trái phiếu.

Khả năng sở hữu bất động sản của trường đại học cũng thể hiện quyền tự chủ tài chính. Các năng lực của trường đại học để mua bán và xây dựng cơ sở là một phần không thể thiếu của tự chủ tài chính. Có một số nước cho phép các trường đại học có thể bán bất động sản của trường một cách tự do (ví dụ: Bỉ, Cộng hoà Séc, Estonia, Vương quốc Anh), có nước đòi hỏi phải được phép của cơ quan công quyền (ví dụ: Croatia, Iceland, Latvia), có nước thì không cho phép bán bất động sản mà trường sở hữu (ví dụ: Hy lạp). Tuy nhiên, quyền sở hữu bất động sản và sử dụng tài sản của trường cần có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước.

Nhưng xét ở tất cả khía cạnh của quyền tự chủ tài chính ở các trường đại học, thì các nước Tây Âu được hưởng quyền tự chủ lớn hơn các nước Đông Âu. Tuy nhiên, các trường đại học ở các nước phương tây có quyền nhiều hơn để sử dụng công khai tài trợ mà họ nhận được, nhưng ít quyền hơn trong quyết định về học phí. Các trường đại học ở Đông Âu có xu hướng có ít quyền tự chủ với ngân sách công cộng, nhưng nhiều trường hợp có quyền tự chủ nhiều hơn để quyết định về nơi học tập mà tư nhân tài trợ và các lệ phí.

Về chương trình học, phần lớn các trường đại học ở Châu Âu có đầy đủ quyền lực để chấm dứt các chương trình hiện có. Chỉ một số lượng nhỏ các nước, các trường đại học phải đàm phán với các Bộ có liên quan (ví dụ: áo, Síp, Tây Ban Nha). Còn các chương trình mới trường muốn triển khai thực hiện phải được Bộ có liên quan hoặc cơ quan nhà nước phê duyệt. Về tuyển sinh, phần lớn các nước, các trường có xu hướng miễn phí cho tất cả học sinh đáp ứng các mức yêu cầu cơ bản (chỉ cần có bằng phổ thông trung học hoặc trúng tuyển kỳ thi quốc gia). Về số lượng tuyển, chỉ một số ít quốc gia, các trường đại học được quyết định số lượng sinh viên được tuyển. Còn ở hầu hết các nước việc xác định số lượng sinh viên cần tuyển là do các cơ quan công quyền hoặc bao gồm cả cơ quan công quyền và trường đại học.

Nghiên cứu đã cho thấy vẫn còn một số lượng lớn các quốc gia không trao đủ quyền tự chủ cho các trường đại học, do đó đã hạn chế sự thực thi nhiệm vụ và phát triển của các trường đại học. Nghiên cứu cũng khẳng định đang tồn tại một xu hướng hướng tới trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường đại học ở Châu Âu và chỉ ra hướng cải cách trong lĩnh vực quản trị và quyền tự chủ đại học. Để đạt được mục tiêu này cần có các biện pháp để phát triển thể chế năng lực và nguồn nhân lực cho các trường đại học.

Một trong những nước điển hình có quyền tự chủ cao ở Châu Âu là Cộng hoà Liên Bang Đức. Hệ thống giáo dục ở Đức được hình thành theo hướng phi tập trung hoá với sự phân quyền lớn cho các bang. Không có hệ thống giáo dục chung cho toàn liên bang, mỗi bang có hệ thống riêng của mình trên cơ sở cơ cấu khung của liên bang. Các Bộ Giáo dục ở các bang chịu trách nhiệm hoạch định và thực thi các chính sách giáo dục của bang. Ở cấp liên bang, Bộ Giáo dục và Nghiên cứu liên bang chủ yếu có chức năng hoạch định và thực thi chính sách, hình thành thể chế, quản lý các nguồn kinh phí của liên bang cho giáo dục đại học.

Mô hình giáo dục đại học ở Đức không coi trọng sự can thiệp của chính trị và quyền lực nhà nước. Nó đảm bảo tính độc lập, tự quyết của các trường đại học và quyền tự do của các thành viên được theo đuổi việc nghiên cứu mà không có sự can thiệp của chính quyền, tức cũng theo phương thức tự chủ đại học tuyệt đối. Chính quyền liên bang và các bang chỉ có quyền hạn quản lý một phần công việc của các trường đại học, thông qua việc cấp phát tài chính và qua Hội đồng đại học để bàn bạc đánh giá công việc của các trường.

Các trường đại học ở Đức có quyền tự chủ rất cao. Về học thuật trường được quyết định từ nội dung giảng dạy đến các đề tài nghiên cứu, các Giáo sư của trường đều có quyền quyết định. Về nhân sự trường đại học có toàn quyền tuyển dụng, trả lương và thưởng phạt nhân sự của mình. Ngoài ra, tước vị khoa học có tính cách chuyên môn như Tiến sĩ hay Giáo sư do một Hội đồng giáo sư chuyên ngành của trường đại học trực tiếp quyết định và trường có toàn quyền cấp bằng tiến sĩ. Về đào tạo trường tuyển bao nhiêu, đào tạo thế nào là tuỳ thuộc vào trường.

Chính sách giáo dục tự trị ở Đức có hai điểm lợi quan trọng.

Một là, có sự cạnh tranh về uy tín, chất lượng giữa các trường, vì vậy mà giáo sư trưởng của mỗi bộ môn đều bỏ công sức nghiên cứu, theo dõi các tiến triển khoa học trên thế giới để đạt được nhiều kết quả cho bộ môn mình chịu trách nhiệm.

Hai là, tuỳ theo nhu cầu kinh tế ở từng địa phương các trường đại học sẽ chú trọng ít nhiều về ngành giảng dạy hay các đề tài nghiên cứu cho phù hợp với những đòi hỏi phát triển từng vùng. Nhờ vậy mà phẩm chất của các trường đại học ở Đức đều cao gần như nhau. Nếu có trường đại học nổi tiếng về ngành này thì trường khác có tiếng về ngành khác. Chính mô hình này đã đem lại cho nước Đức một số trường đại học danh tiếng nhất thế giới. Theo kết quả xếp hạng năm 2007 của Đại học Giao thông Thượng Hải (Trung Quốc), nước Đức có 2 trường đại học nằm trong 20 trường đại học/học viện hàng đầu Châu Âu, và nằm trong nhóm 100 trường đại học uy tín nhất thế giới.

4. Tự chủ đại học ở Argentina

Theo Marcela Mollis (2003), cải cách giáo dục đại học ở Argentina thời kỳ 1970-2003 hầu như là một ấn bản của mô hình giáo dục đại học Mỹ. Ông chỉ ra nhiều đặc điểm quen thuộc của mô hình mới từ Mỹ trên đất nước này như: cấu trúc phân đoạn, sự tập trung đào tạo các nhà khoa học và kỹ sư, vai trò của nghiên cứu, giáo dục đại học không miễn phí kết hợp với nhiều nguồn kinh phí tư nhân cho việc phát triển đại học, khuynh hướng tư nhân hoá giáo dục đại học với hệ thống các trường đại học tư thục phát triển rầm rộ cùng quy mô số lượng sinh viên ngày càng lớn, vai trò quản lý của nhà nước đối với giáo dục đại học giảm, nhường bước cho tính tự trị của nhà trường.

Sau hơn 30 năm áp dụng mô hình giáo dục đại học Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp nơi số sinh viên tốt nghiệp đại học của Argentina vẫn gia tăng mạnh mẽ vào những năm đầu của thế kỷ 21, chiếm 25% dân số lao động, một tỷ lệ cao nhất trong lịch sử kinh tế Argentina. Hậu quả là thanh thế và uy tín hệ thống giáo dục đại học của Argentina đang sút giảm nghiêm trọng. Vì sao việc áp dụng một mô hình giáo dục đại học được xem là tiên tiến nhất thế giới lại không thành công ở Argentina? Theo một số chuyên gia ở Argentina nguyên nhân thất bại của công cuộc cải cách giáo dục đại học là do:

Theo Carlos Pujadas (2000), sự mở rộng quy mô đào tạo bắt đầu từ năm 1970 đã không là một tiến trình đi cùng với những quyết sách hợp lý và hiệu quả nhằm bảo đảm chất lượng giáo dục.

Theo Marcela Mollis, nhiều ngành nghề mới của nhiều trường đại học công lập và tư thục ra đời mà không tham khảo để được điều tiết theo nhu cầu phát triển của kinh tế – xã hội địa phương, đồng thời với việc mở rộng quy mô các lớp học bất chấp chất lượng đào tạo.

Bên cạnh cơ chế hoạt động của nhà trường, những đặc trưng văn hoá quốc gia không được xét đến trong quá trình áp dụng mô hình giáo dục đại học từ bên ngoài cũng là nguyên nhân mang ý nghĩa động lực nội tại dẫn đến sự thất bại của giáo dục đại học Argentina. Một trong những đặc trưng văn hoá được nhấn mạnh đó là “quán tính” (được hình thành qua hơn 170 năm) của chính quyền quen làm nhà cung cấp, nhà bao cấp đối với giáo dục đại học chứ không phải là nhà điều khiển. Quán tính này vẫn hoành hành mặc dù đạo luật thành lập Hội đồng quốc gia kiểm định và đánh giá đại học đã được ban hành vào năm 1995.

Marcela Mollis cho rằng, sự phát triển các điều kiện cạnh tranh và sự mở rộng về hệ tư tưởng đã thúc đẩy những tiến trình cải cách giáo dục đại học suốt mấy thập niên vừa qua, và buộc các nước châu Mỹ Latin thay đổi theo mô hình giáo dục đại học của Mỹ. Tuy nhiên, mô hình này phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn ở những nước nào đưa được những chính sách tích cực về công nghiệp hoá vào thực tiễn (ví dụ như Brazil, vào thập niên 1960, khi Brazil bắt đầu cải cách, mở rộng hệ thống giáo dục và đào tạo của mình, cũng là lúc quá trình công nghiệp hoá của nước này tăng trưởng mạnh và thành công).

Ngược lại, mô hình này đối mặt với những khó khăn ngày càng lớn hơn đối với những quốc gia có những cấu trúc xã hội truyền thống hơn và tiến trình công nghiệp hoá kém hiệu quả hơn (ví dụ như Argentina, tiến trình công nghiệp hoá ở nước này diễn ra chậm chạp hơn và sau đó là cuộc khủng hoảng kinh tế).

5. Những kinh nghiệm rút ra nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các trường đại học Việt Nam

Để học tập kinh nghiệm từ hệ thống GDĐH các nước áp dụng vào hệ thống GDĐH Việt Nam. Ta phải nhận thức rõ một điều là không có một mô hình hay chuẩn mực tối ưu về tự chủ đại học để phỏng theo hay áp dụng. Bởi có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Qua nghiên cứu một số nước trên thế giới, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho hệ thống GDĐH Việt Nam như sau:

* Phải hình thành một hệ thống giáo dục theo hướng phi tập trung hóa

Kinh nghiệm các quốc gia cho thấy, nhằm nâng cao chất lượng trong đào tạo, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong và ngoài nước. Chính phủ các nước đã và đang hướng hệ thống giáo dục đại học của nước mình theo hướng phi tập trung hóa, thực hiện phân cấp một cách mạnh mẽ và giảm dần quyền lực quản lý của nhà nước đối với các trường đại học, tức là theo hướng tự chủ đại học tuyệt đối không hoặc có sự can thiệp không nhiều của chính quyền địa phương. Sự can thiệp của chính phủ vào công việc của trường đại học chủ yếu được thực hiện gián tiếp và đã đem lại nhiều hiệu quả cao trong quản lý, đào tạo.

Để nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học Việt Nam, Nhà nước luôn phải đóng một vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển giáo dục đại học theo nhu cầu thị trường. Đồng thời nhà nước quản lý các trường đại học chủ yếu thông qua Luật Giáo dục đại học, các chính sách và quy chế. Nhà nước cũng phải tiến hành kiểm định chất lượng các trường đại học một cách định kỳ theo các tiêu chuẩn phù hợp với thực tiễn giáo dục đại học khu vực và thế giới. Còn để các trường đại học được chủ động trong mọi công việc của trường, miễn là trường không vi phạm các quy định trong Luật, chính sách, quy chế đã được ban hành.

* Phải tôn trọng các quy luật của thị trường và có ý thức khai thác chúng

Cạnh tranh trong giáo dục đại học ở nước ta đang diễn ra. Đây là xu thế tất yếu, khi chúng ta gia nhập WTO và cam kết thực thi Hiệp định GATS. Để hội nhập với thế giới thì chúng ta phải chấp nhận sự cạnh tranh này và khai thác chúng một cách có hiệu quả. Muốn hệ thống GDĐH hoạt động có hiệu quả thì nhà nước phải trao quyền tự chủ cho các trường đại học thông qua cơ chế giám sát chặt chẽ từ xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo và trực tiếp là Hội đồng trường.

Để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các trường đại học phải cải tiến phương pháp giảng dạy, chương trình đào tạo gắn với thực tiễn để thỏa mãn nhu cầu thị trường. Trong điều kiện kinh tế của chúng ta còn hạn chế, sự đầu tư cho giáo dục còn thấp, nhà nước cần để các trường chủ động trong việc xây dựng lại các chương trình đào tạo, mở rộng các mối quan hệ với các tổ chức, doanh nghiệp ở trong và ngoài nước để kêu gọi sự đầu tư, tài trợ từ họ.

* Phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh về uy tín, chất lượng giữa các trường đại học

Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cho phép các cơ sở giáo dục nước ngoài được liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục trong nước và sau ngày 1/1/2009 cũng không hạn chế đối với các cơ sở 100% vốn nước ngoài. Đồng thời Việt Nam đã có cam kết khá sâu và rộng về thực thi Hiệp định GATS trong lĩnh vực giáo dục. Chính điều này đã mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường giáo dục đại học trong nước, ở các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học kinh doanh, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Vì vậy, hệ thống GDĐH Việt Nam sẽ ra đời khá nhiều cơ sở giáo dục đại học nước ngoài.

Sự cạnh tranh trong giáo dục sẽ xuất hiện và chúng ta phải chấp nhận cơ chế cạnh tranh thị trường. Nhưng hiện nay, các trường đại học tư thục/dân lập và các trường đại học quốc tế hay liên kết quốc tế, được nhà nước áp dụng một quy chế riêng và việc kiểm soát của nhà nước cũng khá thông thoáng. Với những sự khác biệt trong quản lý này đã tạo ra sự thiếu nhất quán trong toàn hệ thống, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh thiếu bình đẳng giữa các trường đại học.

Để phát huy thế mạnh của cơ chế thị trường nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong đào tạo. Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong điều hành vĩ mô hệ thống giáo dục đại học, chuyển vai trò từ kiểm soát sang giám sát, tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành đúng đắn và có hiệu quả của hệ thống GDĐH, có sự can thiệp cần thiết để giảm thiểu các tiêu cực của thị trường, bảo đảm công bằng trong giáo dục.

Hiện nay, sự liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học trong nước với các cơ sở giáo dục nước ngoài, không đơn thuần về khoa học, công nghệ mà nó còn mang nội dung kinh tế. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống GDĐH trong nước. Nhà nước không nên có sự phân biệt đối xử giữa trường công lập và trường tư thục. Nhà nước có thể đầu tư hoặc cung cấp tài chính cho cả trường công và trường tư và cho phép các trường có thể kêu gọi đầu tư thêm từ bên ngoài để nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo.

* Yêu cầu các trường đại học phải thành lập Hội đồng trường đưa vào hoạt động

Hội đồng trường ở các nước là nơi đại diện cho quyền lợi của người dân, đại diện cho nhà nước nắm giữ quyền lực để định hướng, tổ chức, giám sát hoạt động của trường đại học. Còn ở Việt Nam, theo Điều lệ trường đại học ban hành năm 2003, yêu cầu các trường thành lập Hội đồng trường. Nhưng cho đến nay, có rất ít trường đại học có Hội đồng trường. Chính vì vậy, để trao quyền tự chủ cho các trường đại học mà nhà nước vẫn có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động của nhà trường thì phải yêu cầu các trường đại học thành lập ngay Hội đồng trường. Việc thành lập Hội đồng trường phải theo đúng nghĩa của nó và có sự tách bạch rõ ràng giữa Hội đồng trường và Đảng ủy. Chỉ khi Hội đồng trường được thành lập rồi thì việc giao quyền tự chủ cho các trường đại học mới có hiệu quả cao. Việc thực hiện quyền tự chủ ở các trường đại học mới được kiểm soát chặt chẽ.

* Cần đầu tư tài chính nhiều hơn nữa cho các trường đại học

Thực tế ở các nước Châu Âu chỉ rõ, thiếu vốn đầu tư chính là điểm yếu dẫn đến sự yếu kém trong chất lượng đại học. Hiện nay nguồn tài chính chủ yếu của trường đại học Việt Nam, ngoài ngân sách nhà nước, là học phí. Học phí được nhà nước quy định mức trần. So với thế giới thì học phí của Việt Nam vẫn quá thấp không thể đáp ứng được nhu cầu phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học. Để các trường đại học hoạt động có hiệu quả thì nhà nước cần đầu tư nhiều hơn nữa, đồng thời cho phép các trường tự đưa ra mức học phí phù hợp với thương hiệu của mình và huy động thêm nguồn tài trợ, đầu tư từ bên ngoài.

* Không được áp dụng một cách dập khuôn, máy móc bất cứ một mô hình đại học nào

Thất bại của Argentina trong việc áp dụng một mô hình giáo dục đại học tiên tiến nhất thế giới, là một minh chứng rất cụ thể để ta xem xét khi muốn học hỏi kinh nghiệm và áp dụng những tựu của một nền giáo dục đại học tiên tiến vào nước ta. Để áp dụng chúng ta không thể dập khuôn máy móc mà phải có sự chọn lựa xem có phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta hay không.

Những kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, trao quyền tự chủ cho các trường đại học là tất yếu và những thành công mà các trường đạt được từ việc trao quyền này. Không có một mô hình lý tưởng của quyền tự chủ đại học. Vì vậy, việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học muốn thành công phải căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước và năng lực của các trường đại học.

Tham khảo

  1. Lương Văn Hải (2012). Vai trò nhà nước trong mở rộng quyền tự chủ của các trường đại học công lập Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
  2. Bùi Minh Hiền và nhóm tác giả (2006), Quản lý giáo dục, Nhà xuất bản Đại học sư phạm 2006.
  3. Lâm Quang Thiệp (2004), “Giáo dục đại học Việt Nam và sự tham khảo kinh nghiệm giáo dục đại học Hoa Kỳ”.
  4. Lan Hương – Hải Anh (2006), Đảo ngược “tam giác quản lý” để tự chủ đại học.
  5. Don Anderson & Richard Johnson (1998), University Autonomy in Twenty Countries, Centre for Continuing Education The Australian National University, 1998.
  6. Thomas Estermann & Terhi Nokkala (2009), “University Autonomy in Europe”, Exploratory study.
  7. Trần Quang Sen, “Vài nét về giáo dục VN và giáo dục CHLB Đức”.
  8. Nguyễn Danh Nguyên (2009), “Thực thi cơ chế tự chủ cho các trường đại học công lập: Cơ sở để phát triển bền vững thời kỳ hội nhập”.
  9. Phạm Đỗ Nhật Tiến (2008), “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”.
Share.